Thực hiện quan điểm của Đảng về “Phát triển đội ngũ giáo viên là khâu then chốt” ở Trường Đại học Chính trị

Thứ hai, 12/09/2011 09:49

(ĐCSVN) - Chủ trương “Phát triển đội ngũ giáo viên là khâu then chốt” trong “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo” thể hiện tư duy và nhận thức cách mạng, khoa học, toàn diện, triệt để và sâu sắc của Đại hội XI về thực trạng đội ngũ giáo viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên ở các trường đại học trong toàn quốc của nước ta trước xu thế phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

1. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.[1] Đại hội cũng đã xác định: Chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên; xã hội hoá giáo dục, đào tạo; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng hợp tác quốc tế và tăng ngân sách cho hoạt động giáo dục, đào tạo (GD-ĐT).


Ký giao ước thi đua chào mừng 35 năm thành lập trường (14/1/1976-14/1/2011)

Phát triển đội ngũ nhà giáo với cơ cấu hợp lý, có chất lượng sẽ là động lực quan trọng để đổi mới và nâng cao chất lượng GD-ĐT, góp phần quan trọng tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã hội và hội nhập quốc tế. Đồng thời, Đại hội cũng đã chỉ ra các giải pháp cơ bản phát triển đội ngũ giáo viên, trong đó coi giải pháp: "xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng"[2], là khâu then chốt, là tiền đề trong đổi mới GD-ĐT hiện nay.

Chủ trương “Phát triển đội ngũ giáo viên là khâu then chốt” trong “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo” thể hiện tư duy và nhận thức cách mạng, khoa học, toàn diện, triệt để và sâu sắc của Đại hội XI về thực trạng đội ngũ giáo viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên ở các trường đại học trong toàn quốc của nước ta trước xu thế phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

Trường Đại học Chính trị (ĐHCT) được thành lập theo quyết định ngày 23/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở nâng cấp Trường Sĩ quan Chính trị, đóng quân tại thành phố Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh; có nhiệm vụ đào tạo chính trị viên, giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự cấp phân đội cho quân đội, quốc gia và tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH). Do yêu cầu thực hiện Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 513 của Đảng ủy Quân sự Trung ương, nhiệm vụ GD-ĐT, nghiên cứu khoa học của nhà trường có bước phát triển mới, trong điều kiện đội ngũ giảng viên thiếu trầm trọng. Hiện nay, Trường ĐHCT đang đào tạo hơn 3000 học viên, của quân đội và công an có trình độ đại học và cao đẳng ; nhưng chỉ có: gần 200 giảng viên, hơn 100 trợ giảng (giảng viên thiếu so với biên chế hơn 20%), trong đó có 02 phó giáo sư, 22 tiến sĩ, gần 100 thạc sĩ.

Nhận thức đúng đắn tư tưởng phát triển đội ngũ giảng viên "là khâu then chốt " trong đổi mới công tác GD-ĐT, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường đề ra chiến lược đào tạo, tuyển dụng, bồi dưỡng, sử dụng và phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên; bồi dưỡng giảng viên theo chương trình giáo dục hiện đại và cập nhật những thành tựu mới của khoa học giáo dục; khắc phục tình trạng thiếu, thừa giảng viên ở từng chuyên ngành; khuyến khích giảng viên tự học, tự rèn luyện nâng cao trình độ; tăng kinh phí cho hoạt động của đội ngũ giảng viên.

Vì vậy, kết quả GD-ĐT, nghiên cứu khoa học của Nhà trường không ngừng nâng cao. Cụ thể: 100% giảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và NCKH. Hàng năm có từ 25-30% giảng viên của Nhà trường đạt giảng viên dạy giỏi cấp trường, cấp toàn quân và nhiều giảng viên có đề tài, chuyên đề NCKH đạt giải cao. Hầu hết các học viên của Trường có thái độ học tập, rèn luyện đúng đắn; nắm chắc kiến thức; kết quả học tập, rèn luyện cao. Trong năm học 2008-2009, có 71,69% học viên tốt nghiệp khá, giỏi; năm học 2009-2010, có 75,81% học viên tốt nghiệp khá, giỏi (tăng 4,12%) v.v...

Để phát triển đội ngũ giảng viên ở Trường ĐHCT theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Trước hết, phải đảm bảo đội ngũ giảng viên có số lượng và cơ cấu phù hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo, nhiệm vụ của Nhà trường

Theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI: "Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng" là giải pháp then chốt, tiền đề trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở nước ta. Hiện nay, theo thống kê của Bộ GD- ĐT, tỷ lệ giảng viên/sinh viên bình quân ở nước ta là 1/28, thậm chí có trường 1/30, trong khi đó, ở các nước khác là 1/15 hoặc 1/20. Ở các trường đại học trong quân đội của Việt Nam hiện nay nói chung và Trường ĐHCT nói riêng, lực lượng giảng viên vẫn còn thiếu trầm trọng. Để đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu lực lượng giảng viên theo quan điểm của Đại hội XI cần: "Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo".[3]

Do đó, Nhà trường phải có kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên đảm bảo đủ theo biên chế của từng khoa, từng bộ môn ở các trường đáp ứng được nhiệm vụ GD-ĐT cho mọi đối tượng. Để giảm bớt sự thiếu hụt lực lượng giảng viên hiện nay, Nhà trường đã huy động đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ quản lý có học hàm, học vị, các cán bộ trước đây đã là giảng viên nay chuyển sang công tác ở các lĩnh vực khác tham gia giảng dạy. Về lâu dài phải có một lực lượng dự trữ đảm bảo có thể thay nhau đi học, bồi dưỡng, đi thực tế... Vì vậy, Nhà trường xây dựng kế hoạch đến năm 2012 số lượng giảng viên đạt 100% so với biên chế, có lượng dự trữ từ 5-10%, thực hiện luân chuyển cán bộ giữa nhà trường và cơ sở.

Đảm bảo đội ngũ giảng viên không trì trệ ùn tắc, cũng không gây ra biến động quá lớn về nhân sự, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa việc tạo nguồn, tuyển chọn đưa đi đào tạo bồi dưỡng, điều động, đề bạt, bổ nhiệm, chuyển ra một cách hợp lý.

Về mặt cơ cấu, cần đảm bảo đồng bộ đáp ứng được cơ cấu số lượng giữa các khoa, bộ môn, không để tình trạng khoa thừa, khoa thiếu; mặt khác phải giải quyết tốt giữa cơ cấu cấp bậc, tuổi quân, tuổi đời, nghề nghiệp, trình độ học vấn, kinh nghiệm; khắc phục tình trạng mất cân đối về tuổi đời, tuổi quân, tuổi nghề. Coi trọng cơ cấu ở các khoa chuyên ngành chính, khoa lý luận Mác- lênin; giải quyết cơ cấu đội ngũ giảng viên phù hợp sẽ làm cho đội ngũ giảng viên phát triển đồng đều, phát huy được thế mạnh của mỗi người, hình thành trong đội ngũ giảng viên nhiều lớp kế tiếp nhau một cách vững chắc tạo tiền đề nâng cao chất lượng GD-ĐT của Nhà trường.

Thứ hai, bồi dưỡng phẩm chất chính trị tư tưởng đạo đức, tài nghệ sư phạm cho đội ngũ giảng viên

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: "đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành..."[4]. Giảng viên là người thầy, nhà khoa học, nhà tư tưởng họ không chỉ là người cung cấp tri thức, mà còn phải là người hướng dẫn học viên đến với tri thức, khoa học bằng đường đi ngắn nhất và phải là tấm gương về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, tài nghệ sư phạm cho học viên noi theo. Vì vậy, giảng viên cần được đào tạo, bồi dưỡng để trở thành những tấm gương mẫu mực về chính trị, tư tưởng đạo đức lối sống, văn hoá sư phạm...

Đại hội XI của Đảng có chủ trương: "Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế chính sách thiết lập mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo".[5] Do vậy, đối với giảng viên cần: được bồi dưỡng tri thức tổng hợp trên mọi lĩnh vực, có chiều sâu kiến thức chuyên ngành mình giảng dạy; khả năng hoạt động thực tiễn và sử dụng tốt các trang thiết bị dạy học hiện đại... Đặc biệt phải giáo dục để giảng viên thực sự tâm huyết với nghề nghiệp; bồi dưỡng phương pháp dạy học tích cực, phương pháp nêu vấn đề và giải quyết vấn đề; phương pháp lấy người học làm trung tâm, giảng viên giữ vai trò là người hướng dẫn, người huấn luyện, người tư vấn và bạn cùng học của sinh viên.

Trong xu thế xã hội hoá giáo dục buộc phải gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường với nhu cầu sử dụng cán bộ của cơ sở; do vậy càng đòi hỏi kiến thức tổng hợp, đặc biệt là kiến thức thực tiễn của giảng viên cao hơn và bảo đảm đến 2012 giảng viên có trình độ sau đại học của Nhà trường đạt 40%, phấn đấu đến năm 2020 trên 90% giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên; trên 75% giảng viên có trình độ tiến sĩ (Theo Quyết định của Chính phủ). Để đạt được yêu cầu này, Trường ĐHCT phải chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên một cách chu đáo, từ khâu quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng.

Ba là, xây dựng quy định cho học viên đánh giá lực lượng giảng viên trong Nhà trường

Chủ trương: "Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo".[6] Đây là quan điểm đột phá của Đại hội và cũng là chủ trương mới của Bộ GD-ĐT, nhằm kiểm định chất lượng nguồn lực của quá trình GD-ĐT nói chung và kiểm định năng lực của độ ngũ giáo viên nói riêng.

Vấn đề người tiêu dùng bình chọn mặt hàng mình yêu thích, khán giả bình chọn ca sĩ, nông dân mở hội nghị đầu bờ chấm điểm sản phẩm của nhà khoa học... là hoạt động phản biện, quan trọng và chính xác nhất đối với nhà cung ứng, nhà sản xuất, người tổ chức. Trong quá trình dạy học thì học viên là trung tâm của quá trình đào tạo, do đó việc đánh giá giảng viên là việc làm dân chủ, công bằng và chính xác. Theo Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bành Tiến Long: Đây là việc làm dân chủ trong nhà trường. Hiện, nhiều nước đã thực hiện việc này. Ở nước ta, đã có những trường làm và thu được kết quả rất tốt. Nếu 70% sinh viên đánh giá không tốt về giảng viên thì thầy phải xem xét lại mình và có thể phải đi đào tạo lại.

Để triển khai việc này cần thận trọng tiến hành từng khâu, từng bước. Việc đầu tiên là thống nhất chủ trương trong đảng uỷ, ban giám hiệu; triển khai cho các cơ quan (Phòng Đào tạo, Ban Khảo thí, khoa giáo viên) xây dựng kế hoạch, đặc biệt là lập bảng hỏi; tổ chức tuyên truyền sâu, rộng cho mọi đối tượng nắm chắc chủ trương. Bên cạnh đó, nhà trường phải nâng cao được nhận thức, trách nhiệm cũng như ý thức của sinh viên trong đánh giá giảng viên một cách khách quan, tránh sự tác động của những yếu tố không tích cực.

Nội dung đánh giá cần tập trung vào: tính hữu ích của môn học; thời gian của chủ đề, bài giảng; phương pháp giảng dạy; quan hệ thầy trò...chứ không phải đánh giá con người giảng viên. Về hình thức đánh giá có thể bằng: bảng hỏi; phiếu điều tra, hoặc bỏ phiếu kín...

Bốn là, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và có cơ chế, chính sách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho giảng viên

Người thầy có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động NCKH của sinh viên, cụ thể là gợi mở các vấn đề và hướng đi hợp lý, rèn luyện cho sinh viên một số kỹ năng tư duy, kỹ năng đọc, kỹ năng viết, kỹ năng phản biện; trợ giúp tìm tài liệu, hướng dẫn phương pháp nghiên cứu; tư vấn, giải đáp băn khoăn, chỉnh sửa sai sót. Trong khi ở nước ta, đa số giảng viên đại học NCKH rất hạn chế (nhiều giảng viên không triển khai được nhiệm vụ NCKH), việc hướng dẫn học viên NCKH càng khó khăn hơn. Đây là mặt yếu cơ bản đối với đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến nâng cao chất lượng GD-ĐT. Vì vậy, cần chú trọng đẩy mạnh hoạt động NCKH trong trường đại học làm động lực thúc đẩy giảng viên say mê nghề nghiệp, làm chủ được tri thức trên cơ sở độc lập suy nghĩ, sáng tạo, biết vận dụng tri thức vào bài giảng cũng như thực tiễn cuộc sống.

Có chính sách trợ cấp tiền cho giảng viên đi đào tạo, đi tập huấn, làm chức danh giáo sư, phó giáo sư. Có chế độ trả tiền vượt giờ, nhuận bút, thù lao thoả đáng. Cần tạo mọi điều kiện ưu đãi về chế độ, chính sách trong sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, sắp xếp, kéo dài năm phục vụ tại ngũ đối với những giảng viên có năng lực, còn sức khoẻ và có nguyện vọng tiếp tục phục vụ. Phải có chính sách về nhà ở, đất ở, ưu tiên bảo đảm về phương tiện, vật tư, trang thiết bị, nơi làm việc, sinh hoạt và chính sách hậu phương gia đình; cung cấp tài liệu, thông tin cập nhật, tổ chức khảo sát thâm nhập thực tế, mở rộng giao lưu, trao đổi khoa học, kinh nghiệm giảng dạy, tham quan... và tạo môi trường tốt cho giảng viên rèn luyện.

                                                   --------------------------------------------------------------------------------

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 130 - 131

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 216

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 217.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 216.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 217

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 217

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực