Vì sao lại điều chỉnh khung thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu?

Thứ tư, 12/04/2017 17:46
(ĐCSVN) – Đó là khẳng định của ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế - Bộ Tài chính khi trao đổi với phóng viên xung quanh vấn đề điều chỉnh khung thuế bảo vệ môi trường (BVMT) đối với xăng dầu đang được dư luận quan tâm.

Ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế - Bộ Tài chính (Ảnh: H.T)

Phóng viên (PV): Thưa ông, tại sao lại điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu?

Ông Phạm Đình Thi: Xăng dầu là sản phẩm chứa các chất hóa học, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường ở diện rộng. Các nước trên thế giới đã đưa xăng dầu vào đối tượng thu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế BVMT nhằm mục đích BVMT với các tên gọi khác nhau như thuế nhiên liệu, thuế năng lượng, thuế phương tiện... Theo Luật thuế BVMT hiện hành thì xăng dầu thuộc đối tượng chịu thuế với khung thuế từ 1.000 - 4.000 đồng/lít.

Mức thuế BVMT cụ thể hiện hành đối với xăng dầu đã bằng mức tối đa trong khung thuế (nhiên liệu bay) hoặc gần bằng mức tối đa trong khung thuế. Theo đó, trường hợp cần thiết phải điều chỉnh mức thuế BVMT cụ thể đối với xăng dầu để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ là rất khó, đặc biệt trong điều kiện phải cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế và giá xăng dầu của Việt Nam hiện đang thấp hơn so với giá xăng dầu của các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN. Do đó, Bộ Tài chính đã đề xuất điều chỉnh nâng khung thuế BVMT từ 1.000-4.000 đồng/lít lên 3.000-8.000 đồng/lít.

Việc chúng tôi đề xuất điều chỉnh khung thuế đối với xăng dầu là nhằm chủ động ứng phó với diễn biến giá dầu trên thị trường thế giới, đảm bảo lợi ích quốc gia trong điều kiện hội nhập sâu khi thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế.

Bên cạnh đó, đảm bảo tính ổn định của Luật, trình UBTVQH kịp thời điều chỉnh mức thuế cụ thể trong khung quy định mà Quốc hội đã giao cho UBTVQH để đảm bảo lợi ích quốc gia trong trường hợp giá dầu thế giới có biến động lớn.

Ngoài ra, tránh chênh lệch nhiều về giá bán xăng dầu của Việt Nam với các nước có chung đường biên giới. Đồng thời, nâng cao hơn nữa trách nhiệm và nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trường và khuyến khích sản xuất, sử dụng hàng hóa thân thiện với môi trường.  Đảm bảo thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về BVMT.

PV: Vậy cơ sở nào để Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh khung mức thuế BVMT đối với xăng dầu từ 1.000 đồng/lít-4.000 đồng/lít  (theo luật hiện hành) lên 3.000 đồng/lít-8.000 đồng/lít

Ông Phạm Đình Thi:  Hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia 11 Hiệp định thương mại tự do. Theo cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thì Việt Nam phải thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu.

Trong khi đó, giá bán lẻ xăng dầu ở Việt Nam cơ bản đang thấp hơn so với các nước có chung đường biên giới nói riêng và nhiều nước khác trong khu vực ASEAN. Theo bảng xếp hạng của trang web Global Petrol Prices vào ngày 3/4/2017 thì giá bán lẻ xăng dầu của Việt Nam đang ở mức thấp (trong 180 nước thì Việt Nam đứng thứ 44 từ thấp đến cao và 136 nước có giá bán lẻ xăng dầu cao hơn Việt Nam, trong đó Philippines đứng thứ 55, Campuchia đứng thứ 58, Thái Lan đứng thứ 88, Lào đứng thứ 97). Với mức giá bán lẻ xăng Ron 92 vùng 1 của Việt Nam (theo Petrolimex) - cập nhật đến ngày 6/4/2017 là 17.230 đồng/lít, thấp hơn Lào là 4.806 đồng/lít, thấp hơn Campuchia là 2.826 đồng/lít, thấp hơn Thái Lan là 1.166 đồng/lít, thấp hơn Singapore là 16.175 đồng/lít, thấp hơn Philippines là 3.375 đồng/lít, thấp hơn Hồng Kông (Trung Quốc) là 26.518 đồng/lít.

Cùng với đó, tỷ lệ thuế (gồm: thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế BVMT, thuế giá trị gia tăng (GTGT)) trên giá cơ sở của Việt Nam đang ở mức thấp (37,24% đối với xăng; 21,14% đối với diesel; 11,5% đối với dầu hỏa; và 18,4% đối với mazút) so với nhiều nước (Hàn quốc là 70,3%; Campuchia khoảng 40%; Lào khoảng 56%).

Trên cơ sở tính toán tất cả các yếu tố nêu trên, Bộ Tài chính đề nghị tăng khung mức thuế BVMT từ 1.000 đồng/lít-4.000 đồng/lít lên 3.000 đồng/lít-8.000 đồng/lít là phù hợp (khung áp dụng cho lộ trình dài).

PV:  Tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ xăng dầu hiện nay như thế nào thưa ông?

Ông Phạm Đình Thi: Giá xăng dầu của Việt Nam đang đứng thứ 137 nước từ cao đến thấp, chỉ có một số ít nước khai thác dầu thô có giá xăng dầu thấp như Mỹ đứng thứ 152 nước, Nga đứng thứ 153 nước từ cao đến thấp (Theo bảng xếp hạng của trang web Global Petrol Prices vào  ngày 3/4/2017) do giá dầu thô là giá chung của các nước trên thế giới. Vì vậy, tỷ lệ thuế (gồm: thuế nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế BVMT, thuế GTGT) trên giá cơ sở của Việt Nam đang ở mức thấp (37,24% đối với xăng; 21,14% đối với diesel; 11,5% đối với dầu hỏa; và 18,4% đối với mazút) so với nhiều nước (Hàn quốc là 70,3%; Campuchia khoảng 40%; Lào khoảng 56%).

PV: Ông cho biết tác động của việc điều chỉnh khung mức thuế BVMT của mặt hàng xăng dầu tại dự thảo Luật thuế BVMT (sửa đổi) đối với sản xuất kinh doanh và giá cả tiêu dùng?

Ông Phạm Đình Thi: Trên cơ sở đánh giá tác động cụ thể đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tới giá bán lẻ xăng dầu và đời sống người dân, tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Chính phủ sẽ trình UBTVQH quyết định mức thuế bảo vệ môi trường cụ thể đối với xăng dầu trong phạm vi khung quy định tại Luật cho phù hợp.

Bộ Tài chính mới đề xuất điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu trên cơ sở tính toán nhiều yếu tố để đảm bảo tính ổn định của Luật áp dụng cho thời gian dài. Do đó, việc điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu chưa tác động đến giá bán lẻ xăng dầu, cũng như đến sản xuất kinh doanh.

PV: Có ý kiến cho rằng, việc tăng khung thuế BVMT đối với xăng dầu sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Quan điểm của Bộ Tài chính về vấn đề này?

Ông Phạm Đình Thi: Việc đề xuất điều chỉnh khung thuế BVMT đối với xăng dầu được căn cứ vào nhiều yếu tố như cam kết quốc tế về cắt giảm dần thuế nhập khẩu, giá xăng dầu của Việt Nam so với các nước trên thế giới, tỷ lệ thuế trên giá bán lẻ xăng dầu).

Khi đề xuất mức thuế BVMT cụ thể thì Bộ Tài chính sẽ phải có các đánh giá tác động của việc điều chỉnh mức thuế đến nền kinh tế trong nước để đảm bảo cùng với các giải pháp cải cách hành chính sẽ không làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.

PV: : Thuế BVMT hiện nay được sử dụng cho công tác BVMT như thế nào? Việc tăng thuế BVMT có tác động như thế nào đến nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước (NSNN) để giải quyết vấn đề về môi trường?

Ông Phạm Đình Thi: Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, thuế BVMT là khoản thu ngân sách nhà nước và được sử dụng chi thực hiện các nhiệm vụ chi theo Luật NSNN như chi đầu tư phát triển (chi đầu tư cho các dự án, chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp...), chi đảm bảo xã hội (bao gồm cả chi thực hiện các chính sách xã hội theo quy định),... Trong việc chi cho đầu tư phát triển, nhiều dự án quan trọng có tác động trực tiếp đến BVMT như xử lý nước thải, xây dựng, nâng cấp đường giao thông...

Riêng đối với kinh phí sự nghiệp môi trường: Bộ Tài chính đã có Thông tư số 02/2017/TT-BTC ngày 6/1/2017 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý kinh phí sự nghiệp BVMT (thay thế Thông tư liên tịch số 45/2010/TTLT-BTC-BTNMT ngày 30/3/2010). Tại điểm c Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 02/2017/TT-BTC quy định: “Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình cấp có thẩm quyền bố trí kinh phí sự nghiệp môi trường không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước trong dự toán ngân sách hàng năm”.

Theo Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg  ngày 05/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ) thì một trong các giải pháp thực hiện là tăng dần tỷ lệ chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cho BVMT, phấn đấu đạt 2% tổng chi ngân sách).

Như vậy, hàng năm, ngân sách nhà nước vẫn bố trí riêng cho hoạt động sự nghiệp môi trường.

PV: Xin cảm ơn ông!

Minh Phương

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực