Xây dựng các nền tảng số riêng của Việt Nam: Ý tưởng và tính khả thi

Thứ ba, 21/04/2020 18:00
(ĐCSVN) – Một số nghiên cứu cho rằng, tổ chức kinh doanh trên các nền tảng số hoặc khởi nghiệp trên các mô hình số sẽ là giải pháp cứu nguy cho nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong cuộc chiến chưa biết đến hồi kết với đại dịch COVID-19. Đồng thời, cấu trúc nền kinh tế thế giới sẽ hoàn toàn thay đổi sau đại dịch.

Thay đổi tư duy về kinh tế nền tảng số

Thương mại trên nền tảng số và cơ hội cho Việt Nam

Việt Nam hướng tới nền kinh tế số

Kinh tế số nói chung và kinh tế nền tảng nói riêng được cho là trụ cột của xã hội tương lai. Năm 2020 chứng kiến nhiều biến động do đại dịch COVID-19 và nguy cơ khủng hoảng toàn cầu, nhưng một số các nền tảng số như Amazon, eBay, Alibaba… không chỉ chống chọi tốt với bất ổn của thị trường mà còn có xu hướng phát triển nhanh và mạnh.

Tại Việt Nam, theo Báo cáo về nền kinh tế số Đông Nam Á của Google, Tamesek và Bain&Company năm 2019 cho thấy, kinh tế số của Việt Nam tăng trưởng dẫn đầu khu vực Đông Nam Á (khoảng 38%) và dự kiến có thể đạt mục tiêu 43 tỷ USD vào năm 2025, trong đó kinh tế nền tảng chiếm vai trò quan trọng.

Đại dịch COVID là thời điểm để các chủ thể của nền kinh tế nhận ra vai trò của kinh tế số và sự cần thiết của các nền tảng. Đây có thể là động lực để tạo nên bước ngoặt lớn cho Việt Nam hoặc sẽ là niềm nuối tiếc lớn nếu chúng ta bỏ lỡ. Một số nền tảng của người Việt đang manh nha hình thành, nhưng sự cạnh tranh là vô cùng khốc liệt vì nhiều nền tảng nước ngoài đã có chi phí cận biên gần như bằng không và đang dần xác lập hiệu ứng mạng độc quyền. Vậy đâu là chỗ đứng cho doanh nghiệp Việt? Có hay không một chỗ đứng cho người Việt trong thế giới số? Nếu có, họ là ai?... Đó cũng chính là vấn đề được bàn luận tại Toạ đàm “Xây dựng các nền tảng số riêng của Việt Nam – Ý tưởng và tính khả thi” diễn ra sáng ngày 21/4.

Tọa đàm thu hút sự tham gia thảo luận của 4 diễn giả về các lĩnh vực kinh tế số, công nghệ thông tin (Ảnh: BTC)

Đây là buổi Toạ đàm Số 6 trong chuỗi Toạ đàm gồm 8 buổi về Kinh tế Nền tảng Số (Digital Platform Economy) do UPGen phối hợp với Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức. Tọa đàm được phát trực tuyến trên fanpage của UPGen và Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách.

Tại Việt Nam, theo Báo cáo về nền kinh tế số Đông Nam Á của Google, Tamesek và Bain&Company năm 2019 cho thấy kinh tế số của Việt Nam và Indonesia tăng trưởng dẫn đầu khu vực Đông Nam Á (khoảng 38%) và dự kiến có thể đạt mục tiêu 43 tỷ USD vào năm 2025, trong đó kinh tế nền tảng chiếm vai trò quan trọng. Đại dịch COVID là thời điểm để các chủ thể của nền kinh tế nhận ra vai trò của kinh tế số và sự cần thiết của các nền tảng. Đây có thể là động lực để tạo nên bước ngoặt lớn cho Việt Nam hoặc sẽ là niềm nuối tiếc lớn nếu chúng ta bỏ lỡ. Một số nền tảng của người Việt đang manh nha hình thành, nhưng sự cạnh tranh là vô cùng khốc liệt vì nhiều nền tảng nước ngoài đã có chi phí cận biên gần như bằng không và đang dần xác lập hiệu ứng mạng độc quyền. Vậy đâu là chỗ đứng cho doanh nghiệp Việt? Có hay không một chỗ đứng cho người Việt trong thế giới số? Yếu tố quyết định sự thành công của nền tảng số?

Theo nghiên cứu của Parker và cộng sự (2016), khác với các mô hình truyền thống, các nền tảng số có thể thiết lập vị thế độc quyền nhờ tính quy mô về lượng cầu: nền tảng càng lớn thì càng có giá trị với người dùng, tạo ra hiệu ứng mạng tích cực lớn đến mức đối thủ khó có thể tham gia thị trường. Ví dụ đơn giản như Facebook – nền tảng chia sẻ thông tin, kết nối 2,45 tỷ người tham gia và 1,62 triệu người hoạt động mỗi ngày trên Facebook đã trở thành rào cản lớn để ngăn các nền tảng mới tham gia vào thị trường. Hoặc như Airbnb với 150 triệu người dùng trên 65.000 thành phố và khoảng 1,9 triệu cơ sở lưu trú hoạt động, sở hữu khối lượng thông tin khổng lồ mà ít có đối thủ nào trên thế giới có thể cạnh tranh được. Tuy nhiên, các nền tảng vẫn có khả năng thành công nhờ tính khác biệt – yếu tố then chốt luôn được Micheal Porter đánh giá cao trong việc doanh nghiệp xây dựng lợi thế cạnh tranh. Đơn cử như Instagram, một nền tảng kết nói xã hội tương tự như Facebook, song cá biệt hóa mình bằng hình thức chia sẻ thông tin chủ yếu bằng hình ảnh, hoặc Tiktok thu hút tương tác qua các video mà người sử dụng đăng lên. Tính tương thích với địa phương hoạt động cũng khiến một số các nền tảng chiếm được lợi thế cạnh tranh, ví dụ như Hocmai.vn – đơn vị cung cấp các khóa học trực tuyến mà Coursera đang làm rất tốt ở trên thế giới, xong vẫn tồn tại nhờ tối ưu hóa cho học sinh Việt Nam ôn luyện thi tại các cấp học.

 Các chuyên gia thảo luận tại Tọa đàm trực tuyến (Ảnh chụp từ màn hình Tọa đàm)

Việt Nam trên con đường xây dựng các nền tảng số “Made in Vietnam”

Ông Đỗ Hoài Nam, Chủ tịch HĐQT UPGen cho rằng, Việt Nam sở hữu các nền tảng số hoạt động đa dạng lĩnh vực tương như trên thế giới, ngoại trừ trên hệ điều hành hoặc năng lượng và công nghiệp nặng. Tuy nhiên, Việt Nam chứng kiến không ít những thành công và thất bại của các nền tảng số. Một số nền tảng có tốc độ phát triển nhanh và mạnh như Momo – dịch vụ ví điện tử tiếp cận hơn 10 triệu người dùng (năm 2018) và thành công gọi vốn trị giá trị hơn 100 triệu USD từ Warburg Pincus, đồng thời lọt top 100 công ty công nghệ tài chính lớn nhất toàn cầu. Zalo - ứng dụng nhắn tin và gọi điện miễn phí tương tự như Whatssap của Facebook chứng kiến doanh thu tăng trưởng ở mức 20% trong năm 2019 và lợi nhuận trước thuế tăng 1,5 lần lên mức 641 tỷ đồng. Tuy nhiên, cũng không ít những tên tuổi xuất hiện đình đám nhưng nhanh chóng biến mất trên thị trường như Lotus, Gapo –mạng xã hội được kỳ vọng sẽ thay thế Facebook. Vậy vì đâu mà trên cùng một mảnh đất, kẻ rơi nước mắt, người mỉm cười.

Những nhân tố quyết định đến thành – bại của các nền tảng số ở trên ít nhiều giải thích được câu chuyện. Với những nền tảng Việt xây dựng dựa trên format của thế giới nếu không có tính sáng tạo đặc biệt hoặc tính địa phương cao, ắt hẳn sẽ không thể tham gia vào thị trường mà những “tay chơi ngoại quốc” đã chiếm vị trí độc tôn. Đơn giản nếu Facebook, Twitter đã được phát triển thân thiện với người dùng Việt, cùng với sở hữu lượng thông tin khổng lồ từ hàng tỷ người dùng qua nhiều năm, thì tất nhiên các nền tảng Việt tương tự sẽ trở nên kém cạnh tranh hơn. Trong khi đó, Momo chiếm ưu thế hơn so với các nền tảng nước ngoài nào như Paypal vì hệ thống ngôn ngữ, giao diện gần gũi với người Việt, khả năng kết nối với nhiều ngân hàng nội địa thông qua hệ thống thẻ tín dụng mà phần đông người Việt sở  hữu. Tương tự như vậy, so với Whatsapp, Line, Kakao Talk, Zalo chiếm được ưu thế nhờ thân thiện với người Việt từ ngôn ngữ, giao diện, phương thức cài đặt…

Phác họa ý tưởng để xây dựng nền tảng số Việt Nam

 Không khí thảo luận nghiêm túc tại Tọa đàm (Ảnh chụp lại từ màn hình Tọa đàm trực tuyến)

TS Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình VCES phân tích, sẽ không có một mô hình nào để xây dựng nên nền tảng số tại Việt Nam, tuy nhiên từ bài học thất bại và thành công cũng như các quan sát các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng các nền tảng số. Các nền tảng muốn vươn ra ngoài nước, trước hết nên đảm bảo sự sinh tồn tại thị trường thân quen nhất đó là thị trường nội địa, và để cạnh tranh với những nền tảng đã có sẵn với đông người sử dụng, không còn cách nào khác ngoài ra tăng tính khác biệt và tính nội địa hóa.

Mặc dù đây là vấn đề của doanh nghiệp nhưng cũng đặt ra bài toán khó cho những nhà hoạch địch chính sách: Khuyến khích doanh nghiệp Việt tự xây mới nền tảng hay tận dụng các nền tảng đã có sẵn của nước ngoài. Cùng với doanh nghiệp, nhà hoạch địch chính sách cần có cái nhìn xa trông rộng. Nếu quyết tâm xây các nền tảng số của người Việt, cho người Việt như Lotus, Gapo và ngăn chặn sự phát triển của Facebook, Twitter… tại thị trường nội địa như cách Trung Quốc đang làm thì được và mất gì? Chúng ta có thể mất: nguồn vốn lớn đổ vào doanh nghiệp có nhiều khả năng thất bại do không vượt qua được hiệu ứng mạng độc quyền, xáo trộn các hoạt động thương mại, sản xuất sẵn có đã và đang hoạt động trên các nền tảng nước ngoài; cưỡng chế sự tự do lựa chọn của người sử dụng nền tảng. Tuy nhiên ở chiều ngược lại, việc chấp nhận xây dựng nền tảng Việt hoàn toàn cũng tạo động lực cho sự sáng tạo, làm chủ công nghệ. Nhưng vấn đề đặt ra là dân số và số lượng người sử dụng tiếng Việt tương đối hạn chế, chúng ta khó lòng có được thị trường nội địa rộng lớn. Hơn nữa, để nuôi dưỡng các nền tảng nội địa, ngoài ra sự tham gia tích cực của Việt Nam vào các hiệp định thương mại với tư cách là nước đang phát triển cũng khó lòng cho phép chúng ta “cưỡng chế” các nền tảng nước ngoài dừng hoạt động tại Việt Nam.

Các chuyên gia tham gia thảo luận Tọa đàm đã nhất trí cao rằng, hiện nay, ở nước ta, tư duy nền tảng số vẫn còn nằm ở tinh thần thiên về kiểm soát. Đặc biệt, thiếu sự hỗ trợ một môi trường mở, sẵn sàng đối phó và chấp nhận rủi ro để cho cộng đồng khởi nghiệp trong lĩnh vực này thỏa sức sáng tạo và phát triển.

Cũng theo các diễn giả tại Tọa đàm, đối với đa phần các DNVVN ở nước ta, nhất là với các doanh nghiệp không phải chuyên về công nghệ, việc tận dụng nền tảng số này là hoàn toàn trong tầm tay, chỉ cần phải hiểu và tận dụng tốt nhất chức năng nào của nền tảng số sẵn có vì cơ hội của chuyển đổi số và nền tảng số đã cho phép làm tốt. Nói cách khác “Cơ hội có rồi, nền tảng có rồi, cách quan trọng là thu lợi từ nền tảng” – ông Trịnh Minh Giang, Chủ tịch VMCG, đồng sáng lập SA nói.

Trong khi đó, theo TS Nguyễn Đức Thành, chuyên gia kinh tế “việc tạo nền tảng số và sở hữu nền tảng số đó ở nước ta có thể còn là một chặng đường xa nhưng việc hiểu, vận dụng tối đa nền tảng thì đang hiện hữu rất gần. Cơ hội của nền tảng số và chuyển đối số là chắc chắn trong tương lai”./.

 

Hà Anh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực