Xử lý nợ xấu còn vướng về... pháp lý!

Thứ ba, 23/05/2017 21:57
(ĐCSVN) – Chiều ngày 23/5 tại Hà Nội, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Hội thảo “Xử lý nợ xấu –Từ góc độ chính sách và pháp luật”.
Hình ảnh tại hội thảo. (Ảnh: M.P)

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, Dương Quốc Anh; PGS.TS Nguyễn Kim Anh-  Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...đồng chủ trì Hội thảo cùng với sự tham dự của hơn 100 đại biểu Quốc hội, một số Bộ, ngành, Tòa án nhân dân Tối cao,Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, một số ngân hàng thương mại, các chuyên gia kinh tế, luật sư …


Theo đánh giá của nhiều đại biểu tham dự, cơ chế, chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu chưa hoàn thiện, quy định của pháp luật đối với việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ còn nhiều bất cập, chưa bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp, chính đáng của các tổ chức tín dụng (TCTD), làm hạn chế hiệu quả của việc xử lý nợ xấu.

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến thời điểm 01/2017, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 616,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu (nợ xấu được xử lý năm 2012 là 74,68 nghìn tỷ đồng; năm 2013 là 87,98 nghìn tỷ đồng; năm 2014 là 143,55 nghìn tỷ đồng; năm 2015 là 186,89 nghìn tỷ đồng; năm 2016 là 118,49 nghìn tỷ đồng và tháng 01/2017 là 5,14 nghìn tỷ đồng), trong đó nợ xấu do các TCTD tự xử lý là 349,7 nghìn tỷ đồng (chiếm 56,7% tổng số nợ xấu được xử lý), còn lại là bán nợ cho các tổ chức, cá nhân khác (chiếm 43,3%). Theo đó, nợ xấu đã được kiềm chế, đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 02/2017 về mức 2,56% tổng dư nợ tín dụng. Kết quả xử lý nợ xấu của TCTD qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), lũy kế từ năm 2013 đến 31/3/2017, tổng số tiền thu hồi nợ qua VAMC đạt 53.236 tỷ đồng. 

Trong tổng số nợ xấu được xử lý, thì hình thức bán, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ ở mức khá thấp 17.1 nghìn tỷ đồng (chiếm 2,8% tổng nợ xấu được xử lý).  

Tại hội thảo nhiều đại biểu cho rằng, quá trình xử lý nợ xấu đến nay cho thấy còn nhiều khó khăn vướng mắc chưa được tháo gỡ, đặc biệt quy định của pháp luật đối với việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ còn nhiều bất cập làm hạn chế hiệu quả của việc xử lý nợ xấu.

Thứ nhất, nhiều quy định của pháp luật chưa bảo vệ quyền chủ nợ hợp pháp của TCTD /VAMC, cản trở việc tạo lập và phát triển thị trường mua bán nợ xấu, như về việc mua bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất: Trong quá trình tổ chức mua nợ, VAMC xử lý nợ đã mua, khách hàng vay đồng ý bổ sung thêm tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất nhưng theo các quy định tại Điều 174, 175, 176 Luật Đất đai 2013, VAMC, tổ chức mua nợ không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất. Tương tự, khi VAMC, TCTD bán lại khoản nợ xấu đã mua cho bên mua nợ là các cá nhân, tổ chức không phải là TCTD thì các cá nhân, tổ chức này cũng không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai. Do vậy, VAMC, TCTD sẽ khó có thể bán những khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất cho cá nhân, tổ chức không phải là TCTD.

Thứ hai, các quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm còn nhiều vướng mắc, bất cập, không bảo đảm quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm như về quyền thu giữ tài sản: Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ quyền thu giữ tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn đến quyền xử lý tài sản bảo đảm của VAMC, TCTD vì lý do sau: VAMC cũng như các TCTD không thể chủ động thu giữ nếu các chủ tài sản không đồng thuận, cố tình chống đối, thậm chí tạo ra các tranh chấp khác liên quan đến tài sản bảo đảm để khởi kiện ra tòa nhằm kéo dài thời gian xử lý tài sản bảo đảm. VAMC, TCTD sẽ phải chờ bản án của Tòa án, tạo áp lực lên cho các cơ quan xét xử. Sự kéo dài về mặt thời gian đó cũng tạo nên tâm lý chây ỳ trả nợ của bên có nghĩa vụ. Việc xử lý tài sản bảo đảm của VAMC, TCTD bị kéo dài, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả xử lý nợ xấu.

Thứ ba, thời gian xử lý nợ, tài sản bảo đảm qua Tòa án không hiệu quả (thời gian giải quyết khoảng 400 ngày, nhưng thực tế là khoảng 2 năm; chi phí chiếm khoảng 29% giá trị đòi nợ; chỉ số chất lượng tố tụng tư pháp của Việt Nam chỉ đạt 6,5/18). Trong khi đó pháp luật về tố tụng dân sự chưa cho phép áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của bên bảo đảm và quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm.

Cùng với việc phản ánh, thảo luận về nhiều bất cập trong các quy định hiện hành và thực tế của các TCTD trong xử lý tài sản bảo đảm, Hội thảo ghi nhận nhiều kiến nghị cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về quyền xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD cũng như trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền xử lý tài sản bảo đảm của cơ quan tư pháp các cấp. Các diễn giả cho rằng, quan điểm xây dựng và thực thi pháp luật hiện nay cần phải được thay đổi. Với vai trò là trung gian tài chính, số tiền TCTD cho vay được huy động từ người gửi tiền. Việc không cho phép thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của TCTD sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hồi nợ của TCTD, có thể gây ra tình trạng TCTD không thu hồi được các khoản nợ này. Khi TCTD không thu hồi được nợ thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, khả năng chi trả các khoản tiền gửi đến hạn đã huy động để cho vay trước đây (tiền gửi của cá nhân).

Như vậy, việc TCTD không được quyền thu giữ tài sản bảo đảm như các quy định trước đây có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đa số người gửi tiền. Hay nói cách khác, việc bảo vệ quyền của khách hàng chây ỳ, vi phạm cam kết theo hợp đồng sẽ có thể ảnh hưởng lớn đến quyền hợp pháp của đa số người gửi tiền, tiềm ẩn rủi ro gây mất an toàn hệ thống TCTD, an toàn trật tự xã hội. Do vậy, việc cho phép TCTD được quyền thu giữ tài sản bảo đảm là biện pháp quan trọng để bảo đảm quyền lợi người gửi tiền phù hợp với Nghị quyết của Đảng,Quốc hội. 

Phát biểu tại Hội thảo các đại biểu cho rằng, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý xử lý nợ xấu bằng việc ban hành một văn bản chuyên ngành để xử lý nợ xấu dưới hình thức Nghị quyết của Quốc hội là rất cần thiết, phù hợp, nhằm thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng và cần thực hiện ngay để kịp thời thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, cũng như đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn. Các chính sách quy định tại Nghị quyết được đánh giá là thiết thực, cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm tính khả thi, bảo đảm quyền chủ nợ hợp pháp, chính sách của TCTD, VAMC, quyền lợi của người gửi tiền, cũng như các bên có liên quan; khắc phục các vướng mắc, bất cập của hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm trong thời quan qua. 

Minh Phương

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực