Đề xuất nên coi vi bằng là chứng cứ

Thứ sáu, 13/10/2017 21:40
(ĐCSVN) - Đây là vấn đề được đặt ra tại Tọa đàm về việc lập vi bằng và xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động thừa phát lại do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 13/10, tại Hà Nội.

Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) Đỗ Hoàng Yến cho biết: Thời gian qua, việc lập vi bằng và coi vi bằng là nguồn chứng cứ đã có tác động lớn đến đời sống dân sự, giúp người dân có thêm nguồn chứng cứ để bảo vệ quyền dân sự của mình. Việc lập vi bằng đã góp phần đáng kể trong việc ngăn ngừa và giảm tải các vụ việc khiếu kiện không đáng có giữa các tổ chức với tổ chức, giữa tổ chức với cá nhân và ngược lại.

Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) Đỗ Hoàng Yến phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: TH).

Tuy nhiên, do thời gian đầu thực hiện thí điểm, pháp luật chưa hoàn thiện nên còn những bất cập trong việc lập vi bằng như: Còn có trường hợp thừa phát lại (TPL) lập vi bằng bán nhà đất khi không đủ điều kiện công chứng hoặc che giấu giao dịch giả cách,…

Do đó, cần nhận thức rõ ràng là vi bằng được lập để ghi nhận sự kiện, hành vi nhưng phải là sự kiện, hành vi không vi phạm pháp luật và vi bằng do TPL lập là nguồn chứng cứ để tòa án xem xét khi giải quyết vụ án.

Dự thảo Nghị định về tổ chức và hoạt động của TPL quy định “vi bằng là nguồn chứng cứ để tòa án xem xét khi giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, hành chính; là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật”.

Liên quan đến nội dung này, Phó Trưởng Phòng quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp (Sở Tư pháp TP. Hà Nội) Nguyễn Xuân Quỳnh kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu bổ sung thêm nội dung vi bằng có thể được sử dụng làm chứng cứ trong việc giải quyết xét xử các vụ án hình sự.

Dẫn ra một số quy định hiện hành về giá trị pháp lý của vi bằng như: Điều 28 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP quy định: “1. Vi bằng có giá trị chứng cứ để tòa án xem xét khi giải quyết vụ án; 2. Vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật” hay khoản 9 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014  nêu: “Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định”.

Trưởng Văn phòng TPL Ba Đình Nguyễn Văn Lạng cho rằng, văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý (vi bằng) do người có chức năng lập tại chỗ (TPL) nếu được tiến hành theo đúng thủ tục mà pháp luật quy định đều được coi là chứng cứ.

Tuy nhiên, Phó Vụ trưởng Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự (Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao) Nguyễn Chí Dũng lại cho rằng, quy định về giá trị pháp lý của vi bằng chỉ là nguồn chứng cứ như Dự thảo Nghị định là hợp lý, bởi nguồn chứng cứ sẽ trở thành chứng cứ khi được cơ quan tố tụng sử dụng. Theo đó, giá trị của vi bằng chỉ nên có giá trị giữa hai bên với nhau, hai bên giao nhận tài sản tự chịu trách nhiệm với nhau…

Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác 
Thu Hằng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực