Miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội vận chuyển, buôn bán pháo nổ trước ngày 1/7/2015

Thứ tư, 10/05/2017 13:01
(ĐCSVN) – Thời gian qua, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao nhận được ý kiến phản ánh của nhiều TAND về vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa.

Trước ý kiến phản ánh của nhiều TAND, TAND tối cao vừa có văn bản gửi các TAND và Tòa án quân sự các cấp hướng dẫn về xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa.

Về vấn đề này, TAND tối cao có ý kiến như sau: Theo quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện thì “các lọai pháo” thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh.

Ảnh minh họa. Nguồn: chinhphu.vn.

Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 (Luật Đầu tư năm 2014), có hiệu lực từ ngày 1/7/2015, thì “kinh doanh các loại pháo” thuộc danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.

Ngày 22/11/2016, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư năm 2014, trong đó có bổ sung quy định “kinh doanh pháo nổ” vào ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 6). Quy định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2017.

Để áp dụng đúng và thống nhất quy định của pháp luật trong việc xử lý các hành vi tàng trữ, vận chuyển , buôn bán pháo nổ trong nội địa, TAND tối cao yêu cầu Chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc TAND tối cao khi giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển buôn bán pháo nổ trong nội địa cần lưu ý.

Kể từ ngày 1/7/2015, Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành đến ngày 1/1/2017, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành, không xác định pháo nổ là hàng cấm và không xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1/7/2015, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Khi miễn trách nhiệm hình sự, Tòa án phải ghi rõ trong  bản án lý do của việc miễn trách nhiệm hình sự là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý hình sự; người được miễn trách nhiệm hình sự không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án thì được miễn toàn bộ hình phạt; trường hợp người đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại

Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa xảy ra từ 0 giờ 00 ngày 1/7/2015 đến 0 giờ 00 ngày 1/1/2017, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì Tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và các quy định pháp luật có liên quan để tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.

Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm rà soát, báo cáo ngay người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong trong nội địa xảy ra từ 0 giờ 00 ngày 1/1/2017 thì tiếp tục thực hiện theo hướng dẫn tại Công văn số 06/TANDTC-PC ngày 19/1/2017 của TAND tối cao.

Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định về việc miễn trách nhiệm hình sự, tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển bản án, quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 63 Luật Xử lý vi phạm hành chính./.

 

Thu Hằng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực