Những tiến bộ y học vượt bậc mới nhất hiện nay

Thứ sáu, 05/12/2014 18:16

(ĐCSVN) – Những năm trở lại đây, nhiều tiến bộ y học có tính chất đột phá đã ra đời, đóng góp quan trọng vào công cuộc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân loại.

1. Xây dựng thành công bản đồ hệ gen người

 

 Ảnh tư liệu


Năm 2000, các nhà khoa học trong Dự án Hệ gen người quốc tế đã công bố phác thảo về toàn bộ các gen ở người và đăng tải trên internet. Lần đầu tiên, cả thế giới có thể download và đọc một cách đầy đủ nhất thông tin vào toàn bộ gen người.

Bản đồ gen người đã được đầu tư thời gian và tiền bạc từ những năm 90 của thế kỷ 20 với 2 nhóm thực hiện: Dự án Hệ gen người do chính phủ tài trợ, dự kiến hoàn thành trong 10 năm với số tiền lên tới 2,5 tỉ đô la và công ty Celera Genomics chi hơn 100 triệu đô la trong gần 1 thập kỷ để thực hiện nghiên cứu độc lập này.

Cả 2 nhóm đều cùng công bố phác thảo về hệ gen người vào 26/6/2000 tại cuộc họp báo với sự tham dự của Tổng thống Bill Clinton và Thủ tướng Anh Tony Blair. "Đó là một bước ngoặt lớn tương tự như sự kiện con người bước đi trên mặt trăng", TS Francis Collins, Giám đốc Viện nghiên cứu Gen người quốc gia cho biết khi bản đồ gen được hoàn thành.

Năm 2004, phác thảo "cuối cùng" đã được công bố bởi các nhà nghiên cứu và năm 2007, đã có sự bổ sung bởi TS Craig Venter, giám đốc khoa học công ty Celera Genomics.

Với việc xây dựng thành công bản đồ hệ gen người, chúng ta có quyền tin vào tương lai với những loại thuốc và những liệu pháp mới hiệu quả và ít độc với cơ thể người hơn.

2. Sự “ngoạn mục” trong nghiên cứu tế bào gốc

 

 Ảnh tư liệu


Mặc dù bị vướng phải những lệnh cấm nhưng những tiến bộ trong nghiên cứu tế bào gốc là không thể phủ nhận. Ví như các nhà nghiên cứu châu Âu đã tách các tế bào tủy xương từ 2 cậu bé 7 tuổi và rồi cấy tế bào đã được biến đổi vào cơ thể 2 cậu bé này để điều trị bệnh ALD (bệnh liên quan đến não gọi là liên kết giới tính X).

Nhà nghiên cứu tế bào gốc TS George Daley của bệnh viện Nhi Boston gọi quá trình nghiên cứu tế bào gốc ở cả phôi thai và người trưởng thành trong thập kỷ này là sự "ngoạn mục".

Mới đây nhất, các nhà khoa học Trung Quốc đã tạo ra 1 con chuột từ những tế bào da và điều này cho thấy khoa học trong thập kỷ qua đã thực sự tạo ra được điều kỳ diệu và chúng ta có quyền hy vọng trong thập kỷ mới này sẽ có những phương pháp điều trị mới sử dụng tế bào gốc.

3. Liệu pháp thuốc phối hợp trong điều trị AIDS - Triển vọng chấm dứt đại dịch AIDS

 

 Ảnh tư liệu


Kể từ khi xuất hiện liệu pháp điều trị kháng retroviral hoạt tính cao (HAART) năm 1996, HIV không còn là một căn bệnh chết người mà trở thành 1 căn bệnh mãn tính với cơ hội sống kéo dài tới vài thập kỷ. Hơn thế, phương pháp "pha trộn tổng hợp" này cũng trở thành một mô hình điều trị các bệnh khác, từ ung thư phổi đến ung thư tim.

Trong suốt 1 thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu vẫn không ngừng tinh lọc phương pháp này để nâng cao hiệu quả điều trị. Nhờ đó, tỉ lệ tử vong do HIV đã giảm trên toàn thế giới.

Đáng chú ý, các bác sĩ tại Bệnh viện Đại học Mississippi (Mỹ) đã vô cùng vui mừng khi tìm ra cách giúp con của một bà mẹ nhiễm virus HIV thoát khỏi nguy cơ mắc căn bệnh thế kỷ sau khi chào đời. Theo tiết lộ của nhóm điều trị, đứa trẻ có dấu hiệu nhiễm virus HIV ngay sau khi sinh, nhưng 2 năm sau đó đã loại bỏ được hoàn toàn mầm bệnh khỏi cơ thể nhờ dùng kết hợp 3 loại thuốc kháng virus, vốn thường được kê cho những trẻ lớn hơn hoặc người trưởng thành.

Thông thường, các bác sĩ sẽ cho người mẹ dương tính với HIV và con của cô dùng một liều kháng virus trong lúc đẻ để ngăn chặn việc truyền virus từ mẹ sang con. Tuy nhiên, do mẹ của đứa trẻ nói trên không biết mình dương tính với HIV nên biện pháp phòng ngừa trên đã không được tiến hành. Vì vậy, các bác sĩ Mỹ chỉ còn trông chờ vào hiệu quả của sự kết hợp của các biệt dược mạnh hơn. Rốt cuộc, thử nghiệm của họ đã thành công, mở ra triển vọng rằng, nếu các bác sĩ có thể can thiệt đủ sớm sau khi bệnh nhân nhiễm HIV, cơ hội ngăn chặn bệnh phát triển sẽ tăng cao.

4. Kỹ thuật xâm nhập tối thiểu - Cuộc cách mạng trong phẫu thuật

 

 Kỹ thuật xâm nhập tối thiểu giúp phẫu thuật đạt hiệu quả cao (Ảnh: T.H)


Cách đây 10 năm, cứ phẫu thuật nội tạng là để lại một vết sẹo dài tới 15cm nhưng công nghệ phẫu thuật mới - kỹ thuật xâm nhập tối thiểu - đã giúp người bệnh thoát khỏi nỗi ám ảnh từ các vết sẹo khủng khiếp này.

Vào cuối những năm 2000, các bác sĩ ở Bệnh viện Cleverland đã bắt đầu áp dụng kỹ thuật này trong việc lấy 1 quả thận đường rốn trong một ca phẫu thuật ghép thận. Ngày nay, kỹ thuật này được áp dụng nhiều trong các phẫu thuật tử cung, buồng trứng.

Các bác sĩ phẫu thuật cũng sử dụng các rô-bốt để tăng độ chính xác của các thao tác khi phẫu thuật. Điều này đã giúp rút ngắn thời gian nằm điều trị, giảm những nguy cơ sức khỏe do mổ mở, người bệnh nhanh phục hồi.

5. Phát minh ra máy ghi hình cộng hưởng từ (MRI)

 

 Máy MRI 3.0 tesla (Ảnh: BM)


"Đọc vị" bộ óc qua từng chi tiết ở các mô mềm, nghiên cứu hoạt động của não bộ khi con người suy nghĩ, làm việc, nói; xác định những vùng liên hệ đến ý thức, trí nhớ, nghe nhạc, đọc sách, lái xe...; chỉ rõ các điểm bất thường liên hệ nhiều xáo trộn thần kinh, MRI thực sự là một cuộc cách mạng trong y học.

Ra đời vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước nhưng mãi tới năm 2003, phát minh này mới được thế giới công nhận và được trao giải Nobel. Uỷ ban Nobel ghi nhận đã có 22.000 MRI được sử dụng trên toàn cầu với hơn 60 triệu lần khám trong vào năm 2002 và nhấn mạnh tính vô hại vì không dùng tia X.

Với việc sử dụng công nghệ này, các nhà nghiên cứu hiện đã biết thêm nhiều thông tin giá trị về các bệnh như trầm cảm, ung thư não, tự kỷ, rối loạn trí nhớ và thậm chí là cả các bệnh ngoài da.

6. Đột phá trong chữa trị các bệnh liên quan tới thần kinh

* Chụp cộng hưởng từ (MRI) giúp chẩn đoán bệnh mất trí nhớ

Những loại bệnh giảm sút trí nhớ như Alzheimer và thoái hóa thùy thái dương (FTLD) có những triệu chứng giống nhau nhưng quá trình hình thành bệnh lại khác nhau. Cho nên việc chẩn đoán phân biệt hai loại bệnh này rất khó khăn. Để khắc phục, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm việc sử dụng MRI để ước tính tỷ lệ chỉ dấu sinh học nhằm phân biệt giữa bệnh Alzheimer và FTLD.

* Khám phá các gene mới liên quan đến bệnh Alzheimer

 

 Ảnh tư liệu


Hơn 10 gene mới phát hiện có liên quan đến chứng Alzheimer, đã nâng tổng số gene được ghi nhận gắn liền với căn bệnh này lên con số 24. Theo các nhà nghiên cứu, những "tân binh" vừa được nhận diện có tham gia vào các phản ứng miễn dịch và kích thích của cơ thể - các quá trình gắn liền với những thay đổi của bộ não bắt nguồn từ bệnh Alzheimer. Khi xuất hiện nhiều "thủ phạm" gene hơn, giới nghiên cứu sẽ có nhiều mục tiêu hơn để tìm kiếm thuốc điều trị, giúp kiểm soát các triệu chứng suy giảm và mất trí nhớ.

* Phát hiện bệnh Parkinson sớm hơn

Các nhà khoa học hiện tin rằng, hai căn bệnh thoái hóa thần kinh phổ biến nhất là Alzheimer và Parkinson có thể được chữa trị tốt hơn nếu có thể nhận diện bệnh nhân ở giai đoạn sớm của bệnh và can thiệp điều trị tức thì. Chẳng hạn như, vào thời điểm xuất hiện các triệu chứng đầu tiên của bệnh Parkinson - sự run rẩy ở ngón tay hoặc môi, mất khứu giác hoặc biểu cảm khuôn mặt không linh hoạt.

Tuy nhiên, trong báo cáo đầu tiên về các chỉ dấu sinh học đặc trưng cho bệnh Parkinson, các nhà nghiên cứu tuyên bố một nhóm protein trong dịch não tủy có thể giúp xác định bệnh nhân trong giai đoạn đầu của bệnh. Các chuyên gia hy vọng, khám phá này sẽ tạo tiền đề cho những nghiên cứu mới nhằm kiểm tra xem liệu các thuốc vô tác dụng ở những bệnh nhân nặng có hiệu quả hơn trong việc kiểm soát triệu chứng ở những bệnh nhân mới ở giai đoạn sớm của bệnh hay không.

7. Kéo dài chân tay bằng từ trường

 

 Ảnh tư liệu


Những người không may mắn có chân và tay không đồng đều có thể được điều trị theo phương pháp phẫu thuật rồi cấy một thanh titanium lồng vào phần rỗng của xương, sau đó làm vỡ xương tại điểm giữa của thanh titanium. Nói một cách đơn giản, người được điều trị sẽ dùng một từ trường để kiểm soát ở bên ngoài da (nơi được cấy ghép khoảng vài phút mỗi ngày), những tín hiệu từ trường sẽ truyền đến thanh titanium để kéo dài thanh một cách nhẹ nhàng. Khoảng cách phần xương bị tách ra sẽ được lấp đầy nhờ các tế bào xương. Độ dài kéo được phụ thuộc vào tình hình và khả năng tăng trưởng xương của mỗi bệnh nhân.

8. Sản xuất hàng loạt các tế bào máu đỏ nhóm O-

 

                                           Tế bào máu đỏ (Ảnh tư liệu)


Đây là nhóm máu có thể truyền cho tất cả những người cần được nhận. Song riêng ở Mỹ chỉ có khoảng 7% người thuộc nhóm máu O-. Để tạo ra lượng máu nhóm này nhiều hơn, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một quá trình loại bỏ các hạt nhân trong tế bào gốc từ chính những người mang nhóm máu O- tạo ra các tế bào máu đỏ ít hạt nhân có thể truyền được vào người cần nhận. Tuy nhiên, kết quả này mởi chỉ được thử nghiệm thành công ở động vật, còn với con người có thể sẽ được thử nghiệm trong năm tới.

9. Phát hiện khối u ác tính dễ dàng hơn

Khối u ác tính là dạng nguy hiểm nhất của ung thư da với hơn 76.000 người Mỹ nhiễm và 9.600 ca tử vong mỗi năm. Trước thực tế trên, các nhà khoa học đã nghiên cứu và phát triển một thiết bị cầm tay mới, sử dụng ánh sáng của 10 bước sóng khác nhau để xâm nhập vào da và truyền tải dữ liệu vào máy tính. Nhờ đó mà các phần mềm liên quan có thể so sánh được các tổn thương mới nhất của da nhờ vào dữ liệu lưu trữ quét hình ảnh trước đó về các khối u ác tính và ung thư da khác để chỉ ra liệu da có bị ung thư hay không.

10. Phát triển nội tạng người

Các nhà khoa học đang tiến hành phát triển các cơ quan nội tạng và các bộ phận khác của cơ thể từ tế bào gốc - tế bào có thể trở thành bất kỳ loại tế bào và có thể được sử dụng để sửa chữa các mô bị hư hỏng. Thông thường, các tế bào gốc được trích từ tủy xương của bệnh nhân và sau đó được sử dụng để phát triển tiếp theo. Đến nay, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy khả năng thu hoạch tế bào gốc từ da. Nhờ đó, có thể phát triển tế bào thay thế các cơ quan như ống dẫn khí vào phổi và bàng quang, xa hơn nữa là van tim và ruột. Việc phát triển các cơ quan từ tế bào gốc của chính bệnh nhân sẽ tạo ra khả năng hạn chế sự phản ứng ngược khi cấy ghép và việc dùng thuốc ức chế miễn dịch sau phẫu thuật.

11. Thay khớp cảm biến

Bằng cách kết hợp một bộ cảm biến không dây vào một khớp nhân tạo, các bác sĩ có thể theo dõi và đo lường cân nặng, tình trạng căng thẳng, nhiệt độ và áp lực đối với phần cấy ghép của bệnh nhân. Trong quá trình phẫu thuật, các cảm biến có thể giúp điều chỉnh một cách chính xác sự cân bằng để tránh các vấn đề xấu xảy ra. Sau khi phẫu thuật, các bộ cảm biến cũng có thể cảnh báo bác sĩ nếu xương và phương pháo cấy ghép không đúng cách, cho phép bệnh nhân được điều trị thay thế.

12. Tự động phân phối thuốc

Các khoa học đang nghiên cứu làm thế nào một con chip không dây (cấy ở hông của bệnh nhân) có thể giúp quản lý các loại thuốc một cách thường xuyên. Thông qua một bộ điều khiển không dây, bác sĩ có thể điều chỉnh liều lượng và phân chia thời gian phân phối thuốc cho bệnh nhân. Điều này sẽ đặc biệt hữu ích cho những bệnh nhân có bệnh mãn tính và những người phải uống thuốc hàng ngày theo thời gian quy định.

13. Thay đổi lớn về điều trị chứng cholesterol cao

Hiệp hội tim mạch và trường Đại học Tim mạch Mỹ vừa công bố những hướng dẫn mới đối với việc điều trị chứng cholesterol cao, trong đó tập trung vào các yếu tố nguy cơ. Theo họ, nếu không có tiền sử về các vấn đề tim mạch, công cụ tính toán mới bao gồm cả các yếu tố như độ tuổi, giới tính, hoạt động tình dục, tiền sử hút thuốc lá, tiểu đường, áp huyết cao và lượng cholesterol trong máu, có thể giúp bác sĩ biết được bạn có thể hưởng lợi từ việc uống statin - thuốc hạ cholesterol hay không.

14. Bộ thử thai tại nhà đầu tiên tiết lộ cả tuổi thai nhi

Cục quản lý Thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) đã cấp chứng nhận cho bộ thử thai cải tiến đầu tiên, không chỉ có khả năng phát hiện việc có thai, mà còn đo được tuổi của thai nhi, dựa vào thời gian kể từ lúc rụng trứng. Bộ thử thai này sử dụng cùng lượng hoóc môn tiết lộ việc "dính bầu", chất kích dục màng đệm ở người để đưa ra kết quả tính toán.

15. Đột phá tranh cãi về nhân bản người

Mất 17 năm và một bê bối liên quan đến lừa đảo và trục lợi khoa học, nhưng các chuyên gia về tế bào gốc rốt cuộc đã tìm được cách nhân bản những tế bào của người. Giáo sư Shoukhrat Mitalipov đến từ Đại học Oregon (Mỹ) đã ứng dụng cùng công nghệ nhân bản vô tính ra cừu Dolly năm 1996 đối với các tế bào da người.

Tuy nhiên, mục tiêu của Mitalipov không phải là tạo ra các bản sao trẻ hơn. Thay vào đó, ông đã cấy thành công một tế bào da phát triển toàn diện vào một tế bào trứng người bị hút rỗng, rồi dùng hóa chất và điện kích thích trứng bắt đầu phân chia để sản sinh những tế bào gốc phôi thai. Các tế bào gốc này đóng vai trò như nền tảng tế bào cho mọi cơ quan và mô trong cơ thể, tạo ra triển vọng một ngày nào đó có thể được sử dụng để chữa trị những căn bệnh từ Alzheimer, tiểu đường tới bệnh tim.

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực