Việt Nam phấn đấu giảm tỷ lệ mù lòa xuống dưới 4,5 người/1.000 dân

Thứ năm, 15/11/2018 14:54
(ĐCSVN) - Trong nhiều năm qua, mặc dù ngành mắt Việt Nam đã nỗ lực rất lớn song công tác phòng chống mù lòa còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh nhiều bệnh lý về mắt có xu hướng phức tạp, đồng thời ý thức tự chăm sóc và bảo vệ đôi mắt trong cộng đồng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.

   

Ảnh minh họa (Nguồn: A.N)

Theo Bệnh viện Mắt Trung ương năm 2015, tỷ lệ mù lòa toàn quốc là 1,8% dân số, giảm đáng kể so với năm  2007 - 2008 (3,1%) và so với năm 2000 - 2002 (4,1%). Số lượng người mù ước tính ở Việt Nam cũng giảm từ 443.706 người năm 2000 xuống 370.640 người năm 2007 và 329.333 người năm 2015. Tuy nhiên, tỷ lệ giảm trong giai đoạn 2007 - 2015 ít hơn so với giai đoạn 2000 - 2007. Bên cạnh đó, số lượng người trên 50 tuổi với thị lực kém 2 mắt năm 2007 là 1,6 triệu người, đã tăng lên 2,1 triệu người so với năm 2015.

Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu người mù và thị lực kém. Trên 80% tỷ lệ người mù ở Việt Nam có thể phòng, chữa được. Các nguyên nhân gây mù chính hiện nay qua điều tra cho thấy, đục thủy tinh thể vẫn là nguyên nhân chủ yếu (chiếm 66,1%), tiếp đó là các bệnh lý: đáy mắt, glôcôm, tật khúc xạ... Đáng chú ý, tật khúc xạ (cận thị, viễn thị, loạn thị) đang ngày càng phổ biến trong thanh thiếu niên, với tỷ lệ mắc khoảng 15 - 20% ở học sinh nông thôn, 30 - 40% ở thành phố. Nếu tính riêng nhóm trẻ từ 6 - 15 tuổi (lứa tuổi cần ưu tiên được chỉnh kính), cả nước có gần 15 triệu em, với tỷ lệ mắc các tật khúc xạ khoảng 20%, Việt Nam ước tính gần 3 triệu em mắc tật khúc xạ cần chỉnh kính, trong đó 2/3 bị cận thị. Việc khám và cấp kính cho trẻ em mắc tật khúc xạ là một trong những biện pháp can thiệp rẻ tiền và hiệu quả nhất để giảm tỷ lệ mù lòa. Tuy nhiên khi triển khai các chương trình ở cộng đồng gặp nhiều rào cản từ nhận thức, cơ sở vật chất và kinh phí để duy trì và thực hiện chỉnh kính cho các em học sinh.

Một trong những khó khăn của người mù là nghèo không có tiền phẫu thuật, người nghèo chấp nhận bị mù, bên cạnh đó là các điều kiện khác như thiếu kiến thức về phòng và chữa bệnh mắt, việc không biết bệnh mắt của mình có thể chữa được chiếm tới 1/3 trong số người mù và người thị lực kém. Mặc dù hàng năm, ngành mắt đã phẫu thuật điều trị giải phóng mù lòa mang lại ánh sáng cho hàng trăm nghìn người, tuy nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Hiện cả nước có khoảng 1.600 bác sĩ nhãn khoa hoạt động trong các bệnh viện công và tư (trong đó, khoảng 1/3 số người có thể mổ được đục thể thủy tinh) chiếm tỷ lệ 18,1 người/1 triệu dân và khoảng 2.000 y sĩ, y tá nhãn khoa trong cả nước, chiếm tỷ lệ 22,6 người/1 triệu dân. Số lượng bác sĩ trên tỷ lệ dân số như vậy là tương đối đủ so với nhu cầu nhưng việc phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở thành phố và đồng bằng là thách thức lớn trong việc chăm sóc mắt cho người dân ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhiều tỉnh chưa đủ số bác sĩ và phẫu thuật viên, thậm chí có những vùng không có bác sĩ chuyên ngành mắt.

Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia Phòng, chống mù lòa giai đoạn 2020 và tầm nhìn 2030, với mục tiêu chung tăng cường cơ hội tiếp cận của người dân với dịch vụ dự phòng, phát hiện sớm, điều trị và phục hồi chức năng mắt, giảm tỷ lệ các bệnh mù lòa có thể phòng chống được, phấn đấu nhằm loại trừ các nguyên nhân chính gây mù lòa cho mọi người dân, đặc biệt hàng triệu người mù có quyền được nhìn thấy như khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về mục tiêu thị giác 2020.

Theo đó, mục tiêu cụ thể năm 2020, Việt Nam phấn đấu giảm tỷ lệ mù lòa xuống dưới 4,5 người/1.000 dân, trong đó giảm tỷ lệ mù lòa ở người trên 50 tuổi xuống dưới 16 người/1.000 dân; tăng tỷ lệ phẫu thuật đục thủy tinh thể trên 2,5 người/1.000 dân; tăng tỷ lệ người bệnh đái tháo đường được khám và theo dõi bệnh lý về mắt đạt 45%; tăng tỷ lệ tật khúc xạ học đường được khám, phát hiện sớm, cung cấp dịch vụ khúc xạ và chỉnh kính tật khúc xạ đạt trên 70%. Bên cạnh đó, thực hiện đồng bộ các giải pháp: nâng cao nhận thức cộng đồng và củng cố mạng lưới về chăm sóc mắt; xây dựng và hoàn thiện các chính sách phòng, chống mù lòa; kiểm soát các nguyên nhân chính gây mù lòa; tăng cường chuyển giao kỹ thuật, nâng cao năng lực chuyên môn cho các tuyến dưới; hợp tác quốc tế.

Tuy nhiên, công tác Phòng, chống mù lòa là trách nhiệm của toàn xã hội, không chỉ riêng ngành mắt, đòi hỏi nhận thức và quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự chủ động phối hợp của các tổ chức đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân dưới nhiều hình thức đa dạng và quy mô hơn.

A.N
Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực