Điều kiện dạy thêm, học thêm?

Thứ tư, 29/11/2023 16:18
0:00/ 0:00
Giọng nam
  • Giọng nam
(ĐCSVN) - Bạn đọc Trần Lan Anh, sống tại quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội hỏi: “Hiện nay tình trạng dạy thêm trái quy định có chiều hướng gia tăng, tạo áp lực không nhỏ cho phụ huynh cũng như học sinh, nhất là khối tiểu học. Vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang quy định như thế nào về dạy thêm, học thêm áp dụng trong phạm vi nhà trường và giáo viên?”

Trả lời:

Ngày 16 tháng 5 năm 2012, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển ký Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về dạy thêm, học thêm (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2012), trong đó Điều 3 Chương I nêu rõ 5 nguyên tắc dạy thêm, học thêm:

Thứ nhất, hoạt động dạy thêm, học thêm phải góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng, giáo dục nhân cách của học sinh; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và không gây nên tình trạng vượt quá sức tiếp thu của người học.

Thứ hai, không cắt giảm nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá để đưa vào giờ dạy thêm; không dạy thêm trước những nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá.

Thứ ba, đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm.

Thứ tư, không tổ chức lớp dạy thêm, học thêm theo các lớp học chính khóa; học sinh trong cùng một lớp dạy thêm, học thêm phải có học lực tương đương nhau; khi xếp học sinh vào các lớp dạy thêm, học thêm phải căn cứ vào học lực của học sinh.

Thứ năm, tổ chức, cá nhân tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm phải chịu trách nhiệm về các nội dung đăng ký và xin phép tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm.

Vì nhiều lý do khác nhau, học sinh hiện vẫn đang học thêm trong và ngoài nhà trường (Ảnh minh họa. Nguồn: giadinh.suckhoedoisong.vn)

Tại Điều 4 Chương I quy định rõ các trường hợp không được dạy thêm, bao gồm: Không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày; Không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống; Cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và trường dạy nghề không tổ chức dạy thêm, học thêm các nội dung theo chương trình giáo dục phổ thông.

Đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập: Không được tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường; Không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó.

Đối với việc tổ chức dạy thêm, học thêm trong nhà trường, quy định của Bộ nêu rõ: Học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết.

Hiệu trưởng nhà trường tiếp nhận đơn xin học thêm của học sinh, tổ chức phân nhóm học sinh theo học lực, phân công giáo viên phụ trách môn học và tổ chức dạy thêm theo nhóm học lực của học sinh.

Giáo viên có nguyện vọng dạy thêm phải có đơn đăng ký dạy thêm; trong đơn có cam kết với nhà trường về việc hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ của giáo viên theo quy định chung và các nhiệm vụ khác do nhà trường phân công, đồng thời thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy thêm, học thêm trong nhà trường.

Hiệu trưởng nhà trường xét duyệt danh sách giáo viên dạy thêm, phân công giáo viên dạy thêm, xếp thời khoá biểu dạy thêm phù hợp với học lực của học sinh.

Đối với dạy thêm, học thêm trong nhà trường, việc thu và quản lý tiền học thêm (quy định tại Điều 7) để chi trả thù lao cho giáo viên trực tiếp dạy thêm, công tác quản lý dạy thêm, học thêm của nhà trường; chi tiền điện, nước và sửa chữa cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm.

Mức thu tiền học thêm do thỏa thuận giữa cha mẹ học sinh với nhà trường. Nhà trường tổ chức thu, chi và công khai thanh, quyết toán tiền học thêm thông qua bộ phận tài vụ của nhà trường; giáo viên dạy thêm không trực tiếp thu, chi tiền học thêm.

Theo Điều 8 Chương II Thông tư 17, người dạy thêm phải đạt trình độ chuẩn được đào tạo đối với từng cấp học theo quy định của Luật Giáo dục; Có đủ sức khoẻ; Có phẩm chất đạo đức tốt, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân và các quy định của pháp luật; hoàn thành các nhiệm vụ được giao tại cơ quan công tác; Không trong thời gian bị kỉ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành án phạt tù, cải tạo không giam giữ, quản chế, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục; không bị kỷ luật với hình thức buộc thôi việc; Được thủ trưởng cơ quan quản lý hoặc Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã xác nhận các nội dung quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều này (đối với người dạy thêm ngoài nhà trường); được thủ trưởng cơ quan quản lý cho phép theo quy định tại Điểm b Khoản 4 Điều 4 quy định này (đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập).

Người tổ chức học thêm, dạy thêm phải đáp ứng các yêu cầu sau: Có trình độ mà được đào tạo tối thiểu tương ứng của giáo viên; Đủ sức khỏe; Không thuộc các trường hợp đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự, kỷ luật, chấp hành về án phạt tù, bị quản chế, cải tạo không giam giữ hoặc bị áp dụng với biện pháp giáo dục ở xã phường, thị trấn; đưa vào các cơ sở giáo dục, khám chữa bệnh; không bị buộc thôi việc do bị kỷ luật.

Địa điểm tổ chức cần đảm bảo an toàn cho người dạy và người học, ở xa nơi có tiếng ồn, bụi, khí độc… Phòng học thêm cần đảm bảo về diện tích trung bình tính 1,1 m2 trên một học sinh trở lên, có đủ độ chiếu sáng, thông gió theo nhân tạo và tự nhiên, đảm bảo về tiêu chuẩn phòng bệnh, vệ sinh. Kích thước ghế, bàn học sinh, bố trí về bàn và ghế phải đảm bảo theo quy định. Bảng học phải là bảng chống lóa, các màu sắc, kích thước, cách treo đạt yêu cầu theo quy định. Có nơi chứa rác thải hợp vệ sinh, công trình vệ sinh.

Bên cạnh đó, việc dạy thêm còn chịu chế tài bởi Điều 7 Mục 1 Chương II Nghị định 138/2013/NĐ-CP ban hành ngày 22 tháng 10 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, cụ thể:

Phạt tiền đối với hành vi vi phạm quy định về dạy thêm theo các mức phạt sau đây: Từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm không đảm bảo cơ sở vật chất theo quy định; Từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm không đúng đối tượng; Từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm không đúng nội dung đã được cấp phép; Từ 6.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức hoạt động dạy thêm khi chưa được cấp phép.

Hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép dạy thêm từ 6 đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm b và Điểm c Khoản 1 Điều này; Đình chỉ hoạt động dạy thêm từ 12 đến 24 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều này.

Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc bổ sung đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều này; Buộc trả lại cho người học các khoản tiền đã thu và chịu mọi chi phí trả lại đối với hành vi vi phạm quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 1 Điều này./.

Ban Bạn đọc

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực