Bảo đảm không oan sai cho một cá nhân là bảo vệ công lý của một quốc gia

Thứ tư, 03/12/2014 13:08

(ĐCSVN) - Một nhà nước pháp quyền, trong đó đặt vấn đề bảo vệ quyền con người rất cao như Hiến pháp của chúng ta đã quy định thì hệ thống tư pháp phải xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội. Chúng ta bảo đảm không oan sai cho một cá nhân là bảo vệ công lý của một quốc gia.

 
   Phó Chánh án TAND Tối cao Trần Văn Độ. (Ảnh: TH).

Phó Chánh án TAND Tối cao Trần Văn Độ trao đổi với báo chí xung quanh việc có nên quy định “quyền im lặng” trong Dự thảo Bộ Luật Tố tụng hình sự (sửa đổi). Theo ông, việc quy định “quyền im lặng” với phạm vi, giới hạn hợp lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam thì chắc chắn sẽ hạn chế được án oan sai.

PV: Thực tế cho thấy, quyền im lặng đã ít nhiều được quy định gián tiếp trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, thưa ông?

Phó Chánh án Trần Văn Độ: Pháp luật Việt Nam chưa trực tiếp quy định quyền im lặng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nhưng những yếu tố thuộc về nội dung quyền im lặng thì đã được thể hiện ở chỗ này, chỗ kia, đặc biệt trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Ví dụ, quy định không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất, hay quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhờ người bào chữa và người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can, bị cáo.

Bộ luật Hình sự không quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là tội phạm và cũng không quy định tội cố tình khai báo sai sự thật. Có những quy định khuyến khích người phạm tội khai báo, như tự thú, đầu thú hay tại phiên tòa nếu bị cáo không trả lời câu hỏi thì Hội đồng xét xử phải chuyển sang hỏi những người khác… Rõ ràng, theo tôi những yếu tố này đã thể hiện phần nào quyền im lặng.

PV: Vậy thì tại sao không luật hóa quyền im lặng? Hiện nay vẫn còn những ý kiến trái chiều về vấn đề này. Quan điểm của ông ?

Phó Chánh án Trần Văn Độ:
Ở đây, quyền im lặng phải được cụ thể ở  3 nội dung: người bị cáo buộc có quyền im lặng không khai báo; người phạm tội có quyền có luật sư khi khai báo; cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải có trách nhiệm, nhiệm vụ giải thích cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền không khai báo. Và, cuối cùng nếu vi phạm những quy định trên thì những lời khai nhận của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được coi là chứng cứ.

Tùy theo hoàn cảnh của mỗi nước, tùy theo tổ chức hệ thống tư pháp, tùy theo hệ thống luật sư, hình thức pháp luật thì thể hiện những nội dung trên ở mức độ nào đó. Nhưng phải thể hiện không làm oan người vô tội, không ngăn cản được quá trình đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm cân bằng chống oan và bỏ lọt tội phạm. Bởi vì đấu tranh phòng chống tội phạm là vì lợi ích của cộng đồng.

PV: Có ý kiến cho rằng, nếu quy định “quyền im lặng” vào dự thảo Bộ Luật tố tụng hình sự (sửa đổi) chỉ bảo vệ quyền lợi cho thiểu số, nhưng có thể ảnh hưởng đến lợi ích, an nguy của cả cộng đồng. Ông đánh giá như thế nào về vấn đề này?

Phó Chánh án Trần Văn Độ: Không phải chúng ta bảo vệ cho một vài cá nhân. Một xã hội, một hệ thống tư pháp của một quốc gia, một nhà nước pháp quyền, trong đó đặt vấn đề bảo vệ quyền con người rất cao như Hiến pháp của chúng ta đã quy định thì làm thế nào để không xét xử oan người vô tội, đó là vấn đề xã hội, là lợi ích cộng đồng.

Tôi nhấn mạnh, quy định “quyền im lặng” đâu chỉ để bảo vệ cho người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo. Làm thế nào để hệ thống tư pháp này xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan thì đó là công lý, người dân luôn tìm đến công lý. Chúng ta bảo đảm không oan sai cho một cá nhân là bảo vệ công lý của một quốc gia.

PV: Số lượng, chất lượng luật sư hiện vẫn chưa đồng đều và đáp ứng yêu cầu, nhất là trong bối cảnh hiện nay chưa xây dựng được đội ngũ luật sư công, nếu quy định quyền im lặng liệu có khả thi?

Phó Chánh án Trần Văn Độ: Hiện nay có 20% vụ án hình sự có luật sư tham gia. Nếu triển khai tích cực thì có thêm khoảng 10% nữa. Nhưng không nên quy định mọi người đều có quyền có luật sư, mà những người bắt buộc có luật sư thì tạo điều kiện cho luật sư tham gia. Còn những người khác thì giải thích cho người ta quyền khi khai báo, nếu thành khẩn được giảm nhẹ, còn không khai báo thì có quyền im lặng. Chúng ta cần quy định, khuyến khích khai báo nếu phạm tội thì được giảm nhẹ, còn có quyền không khai báo.

Chúng ta không thể đáp ứng quy định mọi người đều có quyền có luật sư vì rõ ràng Việt Nam chưa thể bảo đảm đáp ứng được điều đó, dù có huy động cả hệ thống trợ giúp pháp lý. Cho nên, chúng ta có thể mở rộng ra những người buộc phải có luật sư như người bị truy cứu về tội đặc biệt nghiêm trọng để tránh để xảy ra hậu quả oan sai. Còn tất cả những người khác đều có quyền nhờ luật sư, trợ giúp pháp lý hoặc bất cứ ai như người thân, bạn bè để bảo đảm sự khách quan của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.

PV: Với hệ thống pháp luật hiện nay của Việt Nam, quyền im lặng cần được quy định như thế nào trong dự thảo Bộ Luật tố tụng hình sự (sửa đổi)?

Phó Chánh án Trần Văn Độ: Chúng ta quy định quyền im lặng là để bảo vệ người có khả năng bị oan. Tức là cơ quan tiến hành tố tụng không có chứng cứ nào cả, mà bằng cách truy xét để có lời nhận tội, những trường hợp này dễ bị oan. Không lấy lời nhận tội làm chứng cứ duy nhất, mà lời nhân tội chỉ là chứng cứ khi phù hợp với chứng cứ khác.

Khi tiến hành sửa đổi Bộ Luật tố tụng hình sự chúng ta phải quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tố tụng, nhấn vào việc bị can, bị cáo có quyền không khai báo, quyền có luật sư hỗ trợ; quy định trách nhiệm bảo đảm để bị can, bị cáo thực hiện quyền im lặng và cơ quan tố tụng phải có trách nhiệm giải thích cho bị can, bị cáo quyền đó. Và, chứng cứ được thu thập nếu vi phạm quyền đó thì không được coi là chứng cứ.

Ví dụ: cần loại bỏ các thủ tục hành chính tư pháp phiền phức để đảm bảo luật sư có mặt trong những lần hỏi cung như có cần giấy chứng nhận bào chữa không hay không; có cần hợp đồng thuê luật sư không… Tất nhiên ở đây luật sư phải có trách nhiệm để bảo vệ thân chủ của mình trên cơ sở pháp luật chứ không phải bằng mọi giá.

PV: Áp dụng quyền im lặng với những quy định trên có hạn chế được oan sai, điển hình như vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang), thưa ông?

Phó Chánh án Trần Văn Độ: Theo tôi, với phạm vi, giới hạn hợp lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam thì chắc chắn sẽ hạn chế được án oan sai.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực