Ngày 11/1/1979, Bộ Chính trị khoá IV đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục. Sau đây là toàn văn Nghị quyết:
I- GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI ĐÒI HỎI PHẢI TIẾN HÀNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC
1. Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội lần thứ IV của Đảng đã vạch ra đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đường lối đó, trải qua quá trình tăng cường chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học và kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học và kỹ thuật là then chốt, chúng ta sẽ từng bước xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Nội dung của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt: làm chủ về chính trị, về kinh tế, về văn hoá, xã hội; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân; làm chủ trong phạm vi cả nước, làm chủ trong mỗi địa phương, làm chủ ở từng cơ sở; quyền làm chủ tập thể của cộng đồng xã hội kết hợp hài hoà với quyền tự do chân chính của cá nhân, tạo ra sự nhất trí ngày càng cao giữa cá nhân và tập thể.
Cơ sở kinh tế của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, và được thực hiện bằng cách đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, tạo ra trong cả nước một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại. Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra mục tiêu phấn đấu là trong khoảng 20 năm, hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng vững chắc cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó, chúng ta nhất thiết phải phát huy vai trò then chốt của cách mạng khoa học và kỹ thuật.
Chủ nghĩa xã hội tạo ra cuộc sống văn minh và hạnh phúc, với nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa; đồng thời, con người mới là một nhân tố quyết định sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội.
Nền văn hoá mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân, được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Nó kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong Tổ quốc Việt Nam; kết tinh và nâng cao những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của văn hoá Việt Nam, đồng thời hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người.
Đại hội lần thứ IV của Đảng đã nêu rõ: con người Việt Nam mới có những đặc trưng nổi bật là tinh thần làm chủ tập thể, tinh thần sáng tạo trong lao động, lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản. Đó là những con người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp, có kiến thức, kỹ năng và thể lực cần thiết để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân. Đó là những người lao động có nhiệt tình cách mạng, trung thực, khiêm tốn, cùng nhau đoàn kết và giúp đỡ nhau tiến bộ, quý trọng và bảo vệ của công, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao. Đó là những con người có lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nồng nàn kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, có cuộc sống tập thể phong phú, cuộc sống gia đình hoà thuận và cuộc sống cá nhân lành mạnh.
Sự hình thành những thế hệ con người mới xã hội chủ nghĩa, cùng với những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội, góp phần tạo ra ở nước ta một xã hội tươi đẹp, văn minh và hạnh phúc ngay cả trong điều kiện kinh tế chưa phát triển cao. Xã hội đó được xây dựng trên nguyên tắc đạo đức cơ bản: "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Như vậy, Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của chúng ta có thể đóng góp tích cực hơn nữa vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá, một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật của đất nước, sự nghiệp giáo dục có tác dụng to lớn trong việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử trên đây. Giáo dục, với nghĩa rộng của nó, là một nhân tố có tính quyết định đối với việc đào tạo nhân tài cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta.
Đối với thế hệ trẻ, công tác giáo dục phải tiến hành liên tục từ bé đến lớn, nhằm phát triển những mầm non của con người mới, từ đó đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ lao động mới có đạo đức cách mạng, có kiến thức khoa học và kỹ thuật, có kỹ năng, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với lớp người lớn, công tác giáo dục phải thực hiện việc phổ cập văn hoá và nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật và quản lý, đi đôi với việc bồi dưỡng về chính trị và tư tưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân lao động phát huy cao độ ý thức và năng lực làm chủ tập thể trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2. Để đáp ứng những yêu cầu đó, chúng ta có một cơ sở thuận lợi: đó là những thành tựu đáng tự hào của sự nghiệp giáo dục trong hơn 20 năm qua.
Trên miền Bắc nước ta trước đây, mặc dù kinh tế còn thấp kém và trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã hình thành và không ngừng phát triển. Nạn mù chữ căn bản được xoá bỏ; trình độ văn hoá của nhân dân lao động đã được nâng lên một bước quan trọng; trong thế hệ trẻ, việc phổ cập giáo dục phổ thông cấp II đang được hoàn thành và giáo dục phổ thông cấp III đang ngày càng mở rộng. Ở miền núi, mạng lưới trường lớp được xây dựng đến tận xã. Hệ thống trường chuyên nghiệp và đại học phát triển khá nhanh. Công tác giáo dục đã trải qua nhiều lần cải tiến. Nhà trường xã hội chủ nghĩa phục vụ ngày càng tốt phong trào cách mạng của cả nước. Những thành tựu ấy, trong lĩnh vực giáo dục rõ ràng đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã tạo ra thế hệ thanh niên giàu lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, dũng cảm và thông minh trong lao động và chiến đấu, đồng thời cũng đã tạo ra đội ngũ lao động trí óc và công nhân kỹ thuật đông đảo. Nhờ có văn hoá, nhân dân lao động đã bước đầu phát huy ý thức và năng lực làm chủ tập thể trong sản xuất và xây dựng, quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Nhờ có văn hoá, các lực lượng vũ trang nhân dân đã nhanh chóng nắm được khoa học và kỹ thuật quân sự, tiến mạnh trên con đường chính quy hoá và hiện đại hoá, góp phần vẻ vang vào đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Ở vùng mới giải phóng, dựa vào sức mạnh to lớn của nền giáo dục cách mạng trong cả nước, chúng ta đã nhanh chóng xoá bỏ chế độ giáo dục phản động của Mỹ - nguỵ, thiết lập chế độ giáo dục mới, bước đầu có tính chất xã hội chủ nghĩa, từ phổ thông đến đại học. Nạn mù chữ đang được thanh toán, phong trào bổ túc văn hoá đang trên đà phát triển. Đông đảo con em nhân dân lao động, lâu nay bị kìm hãm trong vòng dốt nát, đã được cắp sách đến trường. Mạng lưới các trường phổ thông, chuyên nghiệp và đại học đang được mở rộng. Đại bộ phận giáo viên làm việc trong chế độ cũ đã được tuyển dụng vào hệ thống giáo dục mới, được bồi dưỡng một bước về chính trị và nghiệp vụ. Công tác đào tạo giáo viên mới đang được đẩy mạnh ở tất cả các tỉnh, thành miền Nam. Việc thống nhất hệ thống giáo dục trong cả nước đang hoàn thành.
Phong trào thi đua "dạy tốt, học tốt", do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng từ năm 1961, đã làm nở rộ những điển hình giáo dục tiên tiến, sáng tạo nhiều kinh nghiệm giáo dục quý báu, cho phép vừa không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, vừa phát triển sự nghiệp giáo dục theo quy mô ngày càng lớn. Nhiều trường, lớp mẫu giáo tiên tiến đã biết dựa vào dân để thực hiện việc giáo dục tất cả các cháu từ 3 đến 6 tuổi, đã bước đầu cải tiến cách nuôi dạy làm cho các cháu khoẻ mạnh, ngoan ngoãn. Nhiều trường phổ thông tiên tiến, noi gương Trường phổ thông cấp I - II Bắc Lý (Hà Nam Ninh), đã làm tốt việc kết hợp học với hành, thực hiện tốt giáo dục kiến thức với giáo dục lao động, cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy, phối hợp tốt nhà trường, gia đình và xã hội, phấn đấu thực hiện phổ cập giáo dục phổ thông đúng độ tuổi và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Học tập kinh nghiệm của Trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hoà Bình, một số trường phổ thông vừa học vừa làm tiên tiến đã đào tạo được những thanh niên có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông, có kiến thức về kỹ thuật và kinh tế, biết lao động đạt năng suất cao. Nhiều trường, lớp bổ túc văn hoá tiên tiến đã sáng tạo những phương thức học tập mới, kết hợp tốt kiến thức văn hoá phổ thông với kiến thức kỹ thuật và kinh tế phù hợp với sinh hoạt và lao động của người học, đã thu hút đông đảo cán bộ và nhân dân lao động theo học thường xuyên. Một số xã có phong trào giáo dục tiên tiến theo gương sáng của xã Cẩm Bình (Nghệ Tĩnh) đã biết gắn công tác giáo dục với ba cuộc cách mạng ở nông thôn, hình thành một hệ thống giáo dục hợp lý trong phạm vi xã, bao gồm nhiều loại trường, lớp cho toàn dân theo học, đồng thời đã xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân trong sự nghiệp giáo dục, tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho việc giáo dục thế hệ trẻ.
Trong hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp cũng đã xuất hiện nhiều trường chuyên nghiệp tiên tiến và một số trường và khoa đại học tiên tiến. Bằng cách kiên trì thực hiện phương pháp đào tạo mới là "giảng dạy, học tập kết hợp với lao động sản xuất theo ngành nghề, với thực nghiệm và nghiên cứu khoa học", những đơn vị tiên tiến ấy đã đào tạo ra những lớp cán bộ khoa học - kỹ thuật và nghiệp vụ mới, gắn bó với nhân dân lao động và biết phát huy tác dụng nòng cốt trong thực tiễn sản xuất và công tác.
Phát huy những thành quả to lớn của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa và của những điển hình giáo dục tiên tiến trên đây là điều kiện rất quan trọng để bảo đảm cho sự nghiệp giáo dục ở nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn cách mạng mới.
3. Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, công tác giáo dục còn có nhiều nhược điểm và thiếu sót.
Sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa của ta phát triển nhanh về số lượng, nhưng còn yếu về chất lượng toàn diện. Nội dung và phương pháp giáo dục chưa thấu suốt nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Trên nhiều mặt, sự nghiệp giáo dục của ta chưa theo kịp sự phát triển của xã hội và của khoa học - kỹ thuật, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu mới của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hệ thống giáo dục hiện nay chưa bồi dưỡng đúng mức cho thế hệ trẻ những phẩm chất và năng lực của con người mới, chưa chuẩn bị đầy đủ cho học sinh đi vào sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa. Còn nhiều trẻ em chưa được thu hút vào nhà trẻ và lớp mẫu giáo, chất lượng giáo dục ở đây nói chung còn thấp. Học sinh tốt nghiệp các trường phổ thông chưa được chuẩn bị đến mức cần thiết về ý thức, năng lực và sức khoẻ để trở thành những người lao động kiểu mới. Nội dung giáo dục của trường phổ thông chưa toàn diện, chủ yếu chỉ mới dạy kiến thức văn hoá chung, còn coi nhẹ kiến thức kỹ thuật và quản lý; phương pháp giáo dục của trường phổ thông còn có phần đơn giản và cũ kỹ, coi nhẹ thực hành và lao động sản xuất, do đó chưa phát huy trí thông minh, óc sáng tạo của học sinh. Về kiến thức văn hoá và khoa học, chưa bám sát thực tế Việt Nam và chưa kịp thời bổ sung những thành tựu khoa học hiện đại. Giáo dục tư tưởng, chính trị và đạo đức chưa được coi trọng đúng mức, chưa sắc bén, thiếu hệ thống, kém sinh động, chưa thật phù hợp với từng lứa tuổi của học sinh. Mức độ phổ cập giáo dục phổ thông trong cả nước còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế và văn hoá trong giai đoạn mới.
Hệ thống giáo dục hiện nay cũng chưa bảo đảm việc hình thành đội ngũ lao động mới có ý chí cách mạng kiên cường, có trình độ kiến thức, tác phong công tác và lối sống phù hợp với yêu cầu của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Hệ thống giáo dục phổ thông hiện nay chưa làm tốt việc chuẩn bị cho đào tạo nghề nghiệp, mặc dù đất nước đang đòi hỏi cấp bách thanh niên đến tuổi lao động phải tham gia đông đảo vào mặt trận sản xuất và xây dựng. Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học còn yếu về các khâu: đào tạo công nhân, nhân viên kỹ thuật và nghiệp vụ; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý; đào tạo cán bộ kỹ thuật và nghiệp vụ có năng lực thực hành giỏi; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học có trình độ cao. Nhiều trường đại học và chuyên nghiệp chưa gắn chặt với các cơ sở sản xuất và cơ sở nghiên cứu khoa học; mặt khác, các ngành, các cơ sở sản xuất, các sơ sở nghiên cứu khoa học chưa xác định rõ trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân. Chất lượng đào tạo còn có nhiều nhược điểm: học sinh tốt nghiệp chưa thật hiểu thực tế Việt Nam để có thể góp phần cải tạo thực tế đó một cách có hiệu quả; nhiều người chưa thật yêu ngành, yêu nghề của mình, chưa có đủ nhiệt tình cách mạng để khắc phục khó khăn, gian khổ, để đi sâu vào khoa học và kỹ thuật, vào thực tế sản xuất và quản lý; thói quen và hứng thú tự học, tự rèn luyện thường xuyên về chính trị, tư tưởng và chuyên môn còn yếu.
Hệ thống giáo dục hiện nay cũng chưa bảo đảm yêu cầu học tập thường xuyên và rộng rãi của đông đảo nhân dân lao động nhằm không ngừng nâng cao năng lực làm chủ tập thể. Mạng lưới, nội dung và phương thức học tập tại chức, về văn hoá phổ thông cũng như về kỹ thuật và nghiệp vụ, còn quá hẹp và giản đơn, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân lao động, nhất là cho công nhân và nông dân, có thể vừa làm việc, vừa mở rộng vốn kiến thức và trau dồi nghề nghiệp.
Trong thời gian qua, sự nghiệp giáo dục có gặp một số trở ngại khách quan. Nền kinh tế sản xuất nhỏ, chiến tranh ác liệt và kéo dài đã hạn chế khả năng phát triển giáo dục, nhất là về mặt chất lượng. Trong xã hội vẫn còn những nhận thức chưa đúng về vị trí, mục tiêu, nội dung, tổ chức và phương pháp của công tác giáo dục; song về mặt chủ quan, cũng có những thiếu sót và nhược điểm trong cơ cấu của hệ thống giáo dục, trong nội dung và phương pháp giáo dục cũng như trong công tác quản lý giáo dục.
Do đó, trong giai đoạn mới của cách mạng, để phát huy những thành quả và kinh nghiệm tốt trong công tác giáo dục, khắc phục những thiếu sót và nhược điểm, bảo đảm cho sự nghiệp giáo dục tiến lên đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, có văn hoá, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, có quốc phòng vững mạnh, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc, chúng ta không thể bằng lòng với những biện pháp cải tiến thông thường, mà phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục sâu sắc trong cả nước, làm cho sự nghiệp giáo dục gắn chặt hơn nữa và phục vụ tốt hơn nữa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
II- PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC
1. Mục tiêu của cải cách giáo dục lần này là:
a) Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện, kế tục sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, hết lòng lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Việc chăm sóc và giáo dục các trẻ em từ tuổi sơ sinh cho đến 6 tuổi có tác dụng cực kỳ quan trọng trong sự hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Cần có kế hoạch dài hạn và biện pháp tích cực động viên và tổ chức toàn xã hội gánh vác sự nghiệp chăm sóc và giáo dục thế hệ mầm non của dân tộc, phát triển rộng khắp mạng lưới nhà trẻ và lớp mẫu giáo từ thành thị đến nông thôn, xây dựng mạng lưới đó thành một bộ phận khăng khít của hệ thống giáo dục quốc dân. Từng bước thu hút tất cả các trẻ em trong độ tuổi vào nhà trẻ và lớp mẫu giáo, ra sức phấn đấu nâng cao chất lượng nuôi dạy các cháu, làm cho các cháu phát triển một cách thuận lợi về thể lực, tình cảm và trí thông minh, chuẩn bị tốt cho các cháu vào học trường phổ thông.
Cần phấn đấu cho thế hệ trẻ từ 6 tuổi đến tuổi trưởng thành được học đầy đủ đến bậc phổ thông trung học và được chuẩn bị tốt để đi vào nghề nghiệp. Giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, ý thức làm chủ tập thể, tinh thần đoàn kết, thân ái, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, ý thức tổ chức và kỷ luật, quý trọng và bảo vệ của công, đức tính thật thà, dũng cảm, khiêm tốn, v.v.. Bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có kiến thức cơ bản về văn hoá, phát triển tư duy khoa học và phát huy năng khiếu, có óc thẩm mỹ, có thói quen giữ gìn vệ sinh và rèn luyện thân thể.
Phấn đấu thực hiện chế độ cả xã hội chăm sóc, nuôi dạy trẻ em, làm cho mọi trẻ em đều được học tập một cách bình đẳng, không tuỳ thuộc vào hoàn cảnh riêng về gia đình, dân tộc và địa phương.
b) Thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, góp phần xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành ba cuộc cách mạng. Phấn đấu cho công nhân, nông dân và mọi người lao động ở tất cả các địa phương, thuộc tất cả các dân tộc, được hưởng đầy đủ quyền học tập, từng bước đạt trình độ văn hoá phổ thông trung học, để không ngừng nâng cao ý thức và năng lực làm chủ tập thể, đủ sức tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Coi trọng việc phát triển giáo dục trong các vùng dân tộc ít người nhằm xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc, phát huy tinh hoa văn hoá của từng dân tộc để làm phong phú thêm nền văn hoá chung của Việt Nam.
c) Đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có trình độ khoa học, kỹ thuật và quản lý phù hợp với yêu cầu phân công lao động trong nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp giáo dục nghề nghiệp phải phát triển theo quy mô lớn, nhằm tạo ra một đội ngũ đông đảo công nhân, nhân viên kỹ thuật và nghiệp vụ, đồng bộ về ngành nghề, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có trình độ tay nghề thành thạo, biết lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, đạt năng suất cao, có tác phong đại công nghiệp và có sức khoẻ thích hợp với ngành nghề; đồng thời, tạo ra một đội ngũ đông đảo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ, với cơ cấu đồng bộ và cân đối về ngành nghề, trình độ và loại hình, phù hợp với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá của đất nước, những cán bộ vừa có phẩm chất chính trị tốt, vừa có năng lực chuyên môn giỏi, để từng bước giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản lý do thực tiễn nước ta đề ra.
Trong quá trình phấn đấu đạt những mục tiêu trên, công tác giáo dục sẽ phát huy tác dụng to lớn của mình đối với ba cuộc cách mạng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực biến Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc.
2. Trong cải cách giáo dục lần này, phải làm cho công tác giáo dục thấu suốt hơn nữa nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Nguyên lý này quyết định hệ thống giáo dục về nội dung, phương pháp, và cơ cấu, làm cho công tác giáo dục gắn chặt với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nguyên lý giáo dục nói trên xuất phát từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng ta về con người mới. Con người mới vừa là chủ thể có ý thức, vừa là sản phẩm của xã hội mới Việt Nam. Phải bằng kết quả tổng hợp của chế độ làm chủ tập thể và ba cuộc cách mạng, phải thông qua hoạt động xã hội thực tiễn, thông qua lao động và đấu tranh trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì mới hình thành được con người mới làm chủ tập thể và phát triển toàn diện. Trong công tác giáo dục của nhà trường, một mặt phải tổ chức cho học sinh chủ động tiếp thụ có hệ thống những giá trị văn hoá cơ bản của loài người và của dân tộc, mặt khác, phải tổ chức cho học sinh chủ động tham gia hoạt động thực tiễn trong xã hội theo mức độ thích hợp với lứa tuổi, qua đó mà làm cho thế hệ trẻ từng bước trưởng thành. Không nắm được những giá trị văn hoá cơ bản của dân tộc và của loài người thì không thể tham gia có ý thức và có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của xã hội; ngược lại, không tham gia một cách chủ động và có tổ chức vào hoạt động thực tiễn của xã hội thì cũng không thể nắm chắc và phát huy được những giá trị văn hoá đó.
Học đi đôi với hành phải nhằm mục đích xây dựng toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của học sinh, phát triển tư duy khoa học và tình cảm cách mạng, tăng cường ý thức và năng lực vận dụng thông minh những điều đã học để giải quyết những vấn đề do cuộc sống đề ra, biến kiến thức thành niềm tin có tác dụng chỉ đạo hành động. Cần khắc phục triệt để lối dạy và học lý thuyết suông, tách rời thực tiễn, có tính chất nhồi sọ của nền giáo dục cũ hiện còn rơi rớt trong nhà trường xã hội chủ nghĩa của ta, đồng thời phải phòng ngừa khuynh hướng thực dụng dẫn tới hạn chế sự phát triển trí tuệ của con người Việt Nam mới.
Lao động sản xuất là hoạt động thực tiễn chủ yếu của con người trong xã hội mới, cho nên sự kết hợp giáo dục với lao động sản xuất là nội dung cơ bản của sự kết hợp học với hành trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp này nhằm mục đích:
- Gắn lý thuyết với thực tiễn, vận dụng kiến thức khoa học vào sản xuất và xây dựng, phát triển tư duy khoa học và tư duy kỹ thuật;
- Bồi dưỡng ý thức và thói quen lao động mới, phát triển hứng thú lao động vì lợi ích chung, xây dựng tình cảm cách mạng đối với nhân dân lao động;
- Thực hiện sự hài hoà, có tính khoa học giữa lao động chân tay và lao động trí óc, bảo đảm phát triển nhịp nhàng tâm trí và thể lực của học sinh.
Trong nhà trường phổ thông, lao động sản xuất phải có tính chất kỹ thuật tổng hợp, nghĩa là gắn khoa học và kỹ thuật với sản xuất, dạy cho học sinh những kiến thức phổ thông về sản xuất hiện đại và thực tiễn sản xuất ở nước ta, làm cho học sinh nắm được những kỹ năng lao động phổ thông và làm quen với công cụ và máy móc, có ý thức trách nhiệm và thói quen đối với lao động, chuẩn bị tốt cho học sinh đi vào đào tạo nghề nghiệp. Từ bé, trẻ em phải được giáo dục lao động bằng những hoạt động vừa vui chơi vừa có ích và bằng những hình thức lao động có kỹ thuật, nhưng đơn giản, vừa sức. Từ tuổi 14, 15 trở đi, đi đôi với việc từng bước nâng cao vốn kiến thức văn hoá và khoa học, học sinh cần tham gia lao động sản xuất thật sự, theo mức độ thích hợp với từng lứa tuổi, bằng những biện pháp kỹ thuật và những công cụ ngày càng hiện đại, góp phần sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Trong các trường chuyên nghiệp và đại học, lao động sản xuất phải gắn với ngành nghề, với nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Lao động sản xuất ở các trường trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề phải gắn với thực tập nghề nghiệp, vừa nhằm củng cố và nâng cao kiến thức, vừa nhằm tạo ra những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quy định. Ở các trường đại học và cao đẳng, lao động sản xuất trước hết là vận dụng những kiến thức khoa học, kỹ thuật vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể do thực tiễn sản xuất và quản lý của đất nước đề ra.
Nhà trường gắn liền với xã hội là điều kiện, đồng thời là kết quả của việc kết hợp học với hành, có tác dụng to lớn trong việc hình thành vững chắc nhân cách xã hội chủ nghĩa của học sinh. Cần tổ chức cho học sinh, giáo viên và cán bộ giảng dạy tham gia các hoạt động xã hội với mức độ thích hợp, động viên nhà trường tích cực góp phần xây dựng xã hội mới, phát huy lực lượng lao động và tiềm lực khoa học rất lớn của mình vào ba cuộc cách mạng, vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, thông qua đó mà rèn luyện học sinh, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ giảng dạy về ý thức và năng lực làm chủ tập thể. Các đoàn thể quần chúng, các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội, các cơ sở sản xuất và nghiên cứu khoa học cần hợp tác chặt chẽ với nhà trường, chủ động tham gia sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo cán bộ và công nhân, cụ thể là: chăm lo việc học tập và lao động của học sinh, giúp đỡ giáo viên và cán bộ giảng dạy, góp sức xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của nhà trường, tạo ra môi trường thuận lợi cho việc đào tạo con người mới.
3. Nội dung chủ yếu của công tác cải cách giáo dục lần này bao gồm ba mặt: cải cách cơ cấu của hệ thống giáo dục, cải cách nội dung giáo dục và cải cách phương pháp giáo dục.
a) Về cơ cấu của hệ thống giáo dục, cải cách là nhằm chăm sóc và giáo dục tốt hơn nữa thế hệ trẻ, đào tạo và bồi dưỡng tốt hơn nữa đội ngũ lao động và đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, quản lý cho đất nước, và mở ra con đường học tập thường xuyên thuận tiện cho nhân dân lao động, do đó mà mau chóng thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hiện đại hoá nước nhà. Hệ thống giáo dục mới phải phù hợp với việc bố trí và tổ chức lại lao động xã hội, xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại; hệ thống đó phải bao gồm các loại hình trường, lớp, gắn bó với nhau một cách hợp lý và linh hoạt, tạo cho mọi người, từ bé đến lớn, ở độ tuổi đi học cũng như đang làm việc, có cơ hội thích hợp để không ngừng nâng cao hiểu biết của mình.
Phát triển nhanh chóng và có chất lượng các nhà trẻ và lớp mẫu giáo, sớm thống nhất mạng lưới các nhà trẻ và lớp mẫu giáo thành hệ thống giáo dục mầm non, tiến tới thu hút tất cả trẻ em từ 2 tháng đến 6 tuổi, chuẩn bị tốt cho các cháu vào học các trường phổ thông.
Xây dựng mới và mở rộng hệ thống trường phổ thông, nhằm thực hiện việc giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ từ 6 tuổi đến tuổi trưởng thành, chuẩn bị tốt cho thanh niên đi vào đào tạo nghề nghiệp, từ công nhân đến đại học. Trước mắt, hoàn thành việc phổ cập bậc phổ thông cơ sở, đồng thời từng bước thực hiện việc phổ cập bậc phổ thông trung học bằng nhiều hình thức. Gắn liền hệ thống giáo dục phổ thông với hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, nhằm làm cho hệ thống giáo dục phổ thông thực hiện tốt chức năng chuẩn bị cho học sinh đi vào giáo dục chuyên nghiệp và đại học, làm cho hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học phát huy đầy đủ thành quả của giáo dục phổ thông. Trong hệ thống giáo dục phổ thông, cần mở những trường, lớp phổ thông cho những học sinh có năng khiếu đặc biệt, và những trường, lớp phổ thông dành riêng cho các trẻ em có tật (mù, điếc, câm, chậm phát triển, v.v.).
Trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, cần mau chóng xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới các trường dạy nghề, bao gồm cả những trường, lớp dạy nghề cạnh xí nghiệp, để đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công nhân, nhân viên kỹ thuật và nghiệp vụ, đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng to lớn của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và hiện đại hoá nước nhà. Đồng thời, tích cực mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới các trường đại học và cao đẳng, các trường trung học chuyên nghiệp, ở trung ương và ở các địa phương theo yêu cầu phát triển của đất nước về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội và quốc phòng. Gắn chặt các trường chuyên nghiệp và đại học với các cơ sở sản xuất và cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.
Đi đôi với mạng lưới các trường học tập trung, cần rất chú trọng phát triển, với nhiều hình thức linh hoạt, mạng lưới các trường, lớp ngoài giờ làm việc (không thoát ly sản xuất), bao gồm cả những trường, lớp bồi dưỡng về văn hoá và nghề nghiệp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm cho nhân dân lao động có điều kiện thuận lợi để học tập kiến thức phổ thông và thường xuyên trau dồi nghề nghiệp, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, phát triển tài năng, cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Cần xác định mô hình hợp lý về mạng lưới trường lớp ở trung ương và ở địa phương, trên địa bàn tỉnh, địa bàn huyện, và đến tận cơ sở, phù hợp với cơ cấu kinh tế, bố trí lao động, và phân bố dân cư của từng địa phương và trong cả nước.
b) Về nội dung giáo dục, cải cách là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tập thể, đủ sức gánh vác sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.
Cần tăng cường giáo dục chính trị và tư tưởng. Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối và chính sách của Đảng, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và đạo đức mới của người lao động làm chủ tập thể. Đi đôi với việc bồi dưỡng lý luận cách mạng, xây dựng thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, cần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tình cảm cách mạng và nếp sống văn minh trong các mối quan hệ gia đình, xã hội, người với người, cá nhân với tập thể, công dân với Tổ quốc v.v.. Công tác giáo dục chính trị và tư tưởng của nhà trường xã hội chủ nghĩa phải tiến hành thông qua tất cả các hoạt động giáo dục, gắn học tập lý luận với hành động thực tiễn; coi trọng hơn nữa vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc giáo dục tư tưởng và tình cảm cách mạng.
Cần hiện đại hoá một cách vững chắc chương trình học tập văn hoá, khoa học và kỹ thuật. Chọn lọc có hệ thống những kiến thức cơ bản, hiện đại, những kiến thức sát với thực tế Việt Nam, làm cho vốn văn hoá, khoa học và kỹ thuật giảng dạy ở nhà trường có tác dụng thật sự trong việc hình thành thế giới quan khoa học, phát triển tư duy khoa học, phát triển năng lực hành động của học sinh. Đưa những kiến thức phổ thông về kỹ thuật và kinh tế vào trường phổ thông; mở rộng kiến thức quản lý trong chương trình học của các trường chuyên nghiệp và đại học. Thông qua lao động sản xuất, nghiên cứu và thực nghiệm khoa học, và những hoạt động xã hội khác, bồi dưỡng cho học sinh kỹ năng lao động, năng lực thực hành, tính nhạy bén trong việc vận dụng kiến thức vào thực tế sản xuất và xây dựng của đất nước.
Tăng cường giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thông qua văn học, nghệ thuật và các môn học khác, xây dựng quan điểm thẩm mỹ của chủ nghĩa Mác - Lênin, phê phán những quan điểm thẩm mỹ không vô sản, bồi dưỡng năng lực thưởng thức và sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo ra thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, trong sáng và phong phú.
Chăm lo xây dựng thói quen giữ gìn vệ sinh và rèn luyện thân thể của học sinh, đẩy mạnh các loại hoạt động thể dục thể thao, nâng cao chất lượng luyện tập quân sự, chuẩn bị tốt cho học sinh về ý thức và năng lực sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những thành quả của cách mạng.
c) Về phương pháp giáo dục, cải cách là nhằm thực hiện tốt việc kết hợp hữu cơ quá trình giáo dục con người với quá trình cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên, phát huy ý thức làm chủ tập thể, tính tự giác và chủ động, trí thông minh và sáng tạo, tình cảm trong sáng, thói quen lành mạnh của học sinh trong học tập và rèn luyện.
Tiến hành một cách nhất quán, kiên trì và sáng tạo trong các trường phổ thông phương pháp học tập kết hợp với lao động sản xuất, thực nghiệm khoa học, hoạt động xã hội và sinh hoạt đoàn thể. Trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, cần thực hiện tốt phương pháp giảng dạy, học tập kết hợp với lao động sản xuất theo ngành nghề, với thực nghiệm và nghiên cứu khoa học. Trong các trường dạy nghề, cần coi trọng phương pháp kết hợp thực tập tay nghề với sản xuất ra của cải vật chất.
Để cho những phương pháp giáo dục đó đạt hiệu quả cao, cần xây dựng sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, các đoàn thể và xã hội, xác định trách nhiệm và phát huy vai trò của các ngành, các cơ sở sản xuất và nghiên cứu khoa học đối với sự nghiệp giáo dục, đồng thời sử dụng rộng rãi những phương tiện giảng dạy và thông tin hiện đại.
III- HỆ THỐNG GIÁO DỤC MỚI
Hệ thống giáo dục mới của nước ta là một thể thống nhất và hoàn chỉnh, bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học; mạng lưới trường, lớp tập trung và mạng lưới trường, lớp không thoát ly sản xuất và công tác.
1. Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là một bộ phận rất quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, tiến hành một cách liên tục trong các nhà trẻ và các lớp mẫu giáo cho trẻ em từ 2 tháng đến 6 tuổi.
Trên cơ sở thống nhất về mặt tổ chức và phát triển theo quy mô lớn, các nhà trẻ và lớp mẫu giáo có nhiệm vụ thu hút tất cả trẻ em trong độ tuổi mầm non, nuôi dưỡng và giáo dục các cháu một cách liên tục, nhằm tạo ra ở các cháu những mầm mống về phẩm chất và năng lực của con người mới.
Về nội dung giáo dục, cần chú ý bước đầu giáo dục cho các cháu những tình cảm trong sáng và những thói quen tốt, phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng, tập suy nghĩ đúng, tập nói đúng, bồi dưỡng sức khoẻ và phát triển cơ thể. Cố gắng làm cho các cháu sớm bộc lộ những mầm mống năng khiếu và phát triển tiềm lực trí tuệ, chuẩn bị tốt cho việc học tập văn hoá ở trường phổ thông sau này.
Về phương pháp giáo dục, cần đặc biệt coi trọng việc dùng tình cảm dịu dàng và những ấn tượng tươi đẹp để hun đúc tâm hồn trong trẻo của các cháu, khéo dùng các loại đồ chơi và các trò chơi thích hợp để giáo dục toàn diện cho các cháu; kết hợp những phương pháp thể dục khoa học với những biện pháp y học hiện đại để bảo vệ sức khoẻ và rèn luyện cơ thể các cháu, làm cho thể chất của các cháu ngay từ bé đã được nuôi dưỡng và phát triển tốt. Cần luyện tập cho các cháu phát âm đúng, dùng đúng từ ngữ, biết lễ phép trong quan hệ gia đình và xã hội; chú trọng đưa các cháu vào sinh hoạt tập thể vui tươi, lành mạnh. Các cháu lớn cần làm quen dần với hoạt động học tập để chuẩn bị vào học trường phổ thông. Trong việc giáo dục lứa tuổi mầm non, cần coi trọng ảnh hưởng của gia đình và xã hội xung quanh trẻ, cần thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa trường, lớp với gia đình và xã hội, hết sức tránh những môi trường không lành mạnh.
Càng làm tốt công tác giáo dục mầm non thì càng có điều kiện thuận lợi để đạt chất lượng cao trong giáo dục phổ thông và mở rộng sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
2. Giáo dục phổ thông
Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời chuẩn bị lực lượng lao động dự trữ và nguồn tuyển chọn để đào tạo công nhân và cán bộ cần thiết cho sự nghiệp xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, và tăng cường quốc phòng.
Trường phổ thông có nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ từ 6 tuổi đến tuổi trưởng thành, và được chia làm 2 bậc: trường phổ thông cơ sở và trường phổ thông trung học.
Trường phổ thông cơ sở là một thể thống nhất từ lớp 1 đến lớp 9; đó là bậc học phổ cập bắt buộc cho tất cả nhi đồng và thiếu niên từ 6 tuổi tròn đến 15 tuổi tròn. Trường phổ thông cơ sở có nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho học sinh đạt trình độ văn hoá phổ thông tương đối hoàn chỉnh, có năng lực làm các loại lao động phổ thông, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp, sẵn sàng đi vào học nghề và tham gia sản xuất, tham gia công tác trong xã hội, hoặc tiếp tục học lên bậc phổ thông trung học bằng nhiều con đường khác nhau.
Nội dung giáo dục ở trường phổ thông cơ sở có tính chất toàn diện và kỹ thuật tổng hợp.
Các môn khoa học tự nhiên cung cấp cho học sinh những khái niệm cơ bản về toán học, vật lý học, hoá học, sinh học, địa học theo quan điểm hiện đại, và được vận dụng theo hướng gắn với thực tế Việt Nam. Về khoa học xã hội, cần coi trọng các môn giáo dục công dân và đạo đức cách mạng, lịch sử Việt Nam và thế giới, địa lý Việt Nam và thế giới, tiếng Việt, văn học Việt Nam và những áng văn hay của văn học thế giới. Coi trọng việc dạy cho học sinh biết một thứ tiếng nước ngoài. Bồi dưỡng một bước cho học sinh về kiến thức và thói quen thẩm mỹ.
Học sinh trường phổ thông cơ sở cần có những hiểu biết kỹ thuật phổ thông, như những kiến thức thông thường về kỹ thuật nông nghiệp, những nguyên tắc cấu tạo và hoạt động của các công cụ, các cơ cấu máy đơn giản, cách sử dụng những công cụ sản xuất phổ thông; đồng thời, học sinh bước đầu được giáo dục lao động một cách có phương pháp để xây dựng tinh thần sẵn sàng lao động, ý thức trách nhiệm trong lao động, thói quen lao động có tổ chức, có kỹ thuật, theo tác phong đại công nghiệp. Ở các lớp trên, cần hướng dẫn cho học sinh biết đại thể đặc tính của những nghề nghiệp sẽ lựa chọn.
Ở trường phổ thông cơ sở, việc giáo dục cho học sinh ý thức và thói quen giữ gìn vệ sinh và rèn luyện thân thể là rất quan trọng.
Về phương pháp giáo dục, cần coi trọng việc xây dựng cho học sinh tính chủ động trong học tập và thói quen tự học. Kết hợp với việc học tập văn hoá, cần tổ chức cho học sinh tham gia lao động sản xuất theo mức độ phù hợp với lứa tuổi. Tăng cường sinh hoạt đoàn thể và hoạt động xã hội của học sinh thông qua Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh.
Sau khi tốt nghiệp trường phổ thông cơ sở, học sinh có thể tiếp tục vào học các loại trường phổ thông trung học hoặc các loại trường chuyên nghiệp, nhất là những trường dạy nghề, hoặc có thể tham gia lao động ở các cơ sở sản xuất (trong trường hợp này, các cơ sở sản xuất có trách nhiệm mở những trường, lớp bồi dưỡng nghề nghiệp và bồi dưỡng văn hoá, giúp cho lớp lao động trẻ tuổi đó có thể vừa làm, vừa học).
Trường phổ thông trung học, từ lớp 10 đến lớp 12, có nhiệm vụ nâng cao và hoàn chỉnh trình độ văn hoá phổ thông cho những học sinh đã tốt nghiệp bậc phổ thông cơ sở. Hoàn thành bậc phổ thông trung học, học sinh có thể vào học các trường đại học, trường cao đẳng, một số trường trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề đòi hỏi trình độ văn hoá cao, hoặc có thể đi ngay vào lao động sản xuất. Trong mạng lưới các trường phổ thông trung học, đi đôi với loại trường thông thường, cần phát triển tốt loại trường vừa học, vừa làm cho lứa tuổi thanh niên.
Nội dung giáo dục ở trường phổ thông trung học cũng mang tính chất toàn diện và kỹ thuật tổng hợp, nhưng có chú ý hơn đến việc phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân.
Các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội giảng dạy trong trường phổ thông trung học sẽ cung cấp cho học sinh những kiến thức lý luận khoa học hiện đại, được chọn lọc theo hướng sát với thực tế Việt Nam. Những kiến thức đó về tự nhiên, xã hội và con người là cơ sở khoa học giúp học sinh hoàn chỉnh cho mình thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, giúp học sinh vững bước đi vào thực tiễn cách mạng, sản xuất và xây dựng của nước ta.
Đi đôi với việc học tập những môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, học sinh còn được học những kiến thức phổ thông về quản lý và kỹ thuật (cơ khí, điện, trồng trọt và chăn nuôi), về cách sử dụng những máy móc thường dùng trong sản xuất và trong đời sống.
Học sinh trường phổ thông trung học cần được học tốt tiếng nước ngoài để nâng cao năng lực học tập, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật hiện đại, và tiếp thụ kho tàng văn hoá phong phú của thế giới.
Ở trường phổ thông trung học, cần coi trọng giáo dục thẩm mỹ và nghệ thuật (âm nhạc, mỹ thuật...), giáo dục và rèn luyện thể chất, hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao và luyện tập quân sự.
Để phát huy sở trường và năng khiếu của từng học sinh, đồng thời để chuẩn bị đáp ứng tốt những yêu cầu của đất nước về phát triển kinh tế, văn hoá và củng cố quốc phòng, ở trường phổ thông trung học sẽ thực hiện việc phân ban một cách hợp lý trên cơ sở giáo dục toàn diện.
Đặc điểm của phương pháp giáo dục ở bậc phổ thông trung học là kết hợp nhuần nhuyễn học tập văn hoá với lao động sản xuất, thực nghiệm khoa học, hoạt động xã hội và sinh hoạt đoàn thể, bảo đảm cho học sinh đang độ tuổi thanh niên có thể củng cố và nâng cao vốn kiến thức, phát triển tư duy khoa học và kỹ thuật, bồi dưỡng tốt ý thức, kỹ năng và thói quen lao động kiểu mới, phát huy mạnh hơn nữa tính năng động và vai trò làm chủ tập thể của mình thông qua quá trình vừa học tập vừa tham gia cải tạo thiên nhiên và xã hội theo mức độ thích hợp.
Cần coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú, thói quen và phương pháp tự học cho học sinh, hướng dẫn học sinh biết cách nghiên cứu sách báo khoa học, thảo luận chuyên đề, ghi chép tư liệu, tập làm thực nghiệm khoa học.
3. Giáo dục chuyên nghiệp
Trường dạy nghề có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công nhân và nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ, đồng bộ về ngành nghề, có phẩm chất chính trị tốt, có tay nghề giỏi, có sức khoẻ. Ngoài ra, trường dạy nghề còn có nhiệm vụ phối hợp với các trường phổ thông, các cơ sở sản xuất, các cơ quan quản lý khoa học, nhằm giúp học sinh phổ thông trong việc học tập kỹ thuật, và nhằm góp phần phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật trong nhân dân lao động.
Các trường, lớp dạy nghề là một mạng lưới trường, lớp kế tục các cấp học phổ thông. Phần lớn các trường, lớp dạy nghề tuyển sinh từ những thanh niên đã học hết bậc phổ thông cơ sở; một số khác dạy những ngành nghề có kỹ thuật cao sẽ tuyển sinh từ những thanh niên đã học hết bậc phổ thông trung học. Mạng lưới trường, lớp dạy nghề cần được phát triển theo quy mô lớn, gắn với các khu công nghiệp, các vùng kinh tế và các xí nghiệp.
Nội dung đào tạo ở các trường, lớp dạy nghề phải toàn diện. Cần coi trọng đầy đủ cả bốn mặt: chính trị và đạo đức; văn hoá và kỹ thuật; rèn luyện tay nghề; bồi dưỡng sức khoẻ. Phương hướng đào tạo chủ yếu là làm cho học sinh biết thạo một nghề chính, đồng thời biết một vài nghề cùng chung cơ sở kỹ thuật với nghề chính. Cần chú ý đúng mức việc nâng cao trình độ văn hoá cơ bản, và bồi dưỡng kiến thức kỹ thuật và nghiệp vụ cơ sở, giúp học sinh có thể tự học thêm. Rèn luyện tay nghề là yêu cầu chính trong việc đào tạo công nhân và nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ. Cần quan niệm tay nghề với nội dung đầy đủ, bao gồm: những hiểu biết về công nghệ học và về tổ chức sản xuất ra sản phẩm nhất định; những kỹ năng vận hành và thao tác đúng quy cách; kỹ năng xử lý kịp thời những hỏng hóc thông thường để bảo đảm sản xuất liên tục; kỹ năng tổ chức lao động một cách khoa học và tác phong đại công nghiệp, tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động.
Trường trung học chuyên nghiệp có nhiệm vụ đào tạo những cán bộ thực hành có trình độ trung học về kỹ thuật và nghiệp vụ kinh tế, và những cán bộ có trình độ trung học trong các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, y tế, v.v.. Ở khu vực sản xuất, những cán bộ thực hành có trình độ trung học đóng một vai trò quan trọng; dưới sự chỉ đạo của kỹ sư, họ có nhiệm vụ tổ chức và hướng dẫn công nhân thực hiện những quy trình, quy phạm đã định, hoặc thực hiện từng phần việc trong công tác nghiên cứu và thiết kế. Ở khu vực kinh tế, hoạt động trong một đơn vị kinh tế cơ sở hay một cơ quan quản lý kinh tế, người cán bộ trung học chuyên nghiệp có thể trực tiếp đảm nhiệm một phần việc thích hợp trong công tác nghiệp vụ kinh tế.
Các trường trung học chuyên nghiệp thuộc những ngành kỹ thuật và nghiệp vụ thông thường tuyển sinh từ những người đã tốt nghiệp bậc phổ thông cơ sở; các trường trung học chuyên nghiệp thuộc những ngành kỹ thuật, kinh tế và nghiệp vụ phức tạp tuyển sinh từ những người đã tốt nghiệp bậc phổ thông trung học; cần ưu tiên tuyển chọn những người đã kinh qua lao động trong ngành.
Nội dung đào tạo của các trường trung học chuyên nghiệp bao gồm các mặt: chính trị và đạo đức; kiến thức kỹ thuật và nghiệp vụ; rèn luyện kỹ năng thực hành; tăng cường thể lực. Đối với cán bộ kỹ thuật, cần bồi dưỡng thêm những kiến thức về kinh tế; đối với cán bộ nghiệp vụ kinh tế, cần bồi dưỡng thêm những kiến thức chuyên ngành về công nghệ học. Riêng ở những trường trung học chuyên nghiệp tuyển sinh từ những người có trình độ phổ thông cơ sở, thì phải bổ túc văn hoá phổ thông, nhất là về những môn học thiết thực phục vụ việc đào tạo nghề nghiệp. Trong việc rèn luyện kỹ năng thực hành, cần coi trọng cả tay nghề công nhân lẫn năng lực thực hành của kỹ thuật viên; những cán bộ thực hành có trình độ trung học có nhiệm vụ trực tiếp hướng dẫn công nhân sản xuất, cho nên cần được bồi dưỡng tay nghề thành thạo đến mức có thể miệng nói, tay làm.
Đi đôi với việc củng cố và hoàn bị những trường trung học chuyên nghiệp hiện có, cần phát triển một cách vững chắc nhiều trường mới, đáp ứng nhu cầu to lớn về cán bộ kỹ thuật và nghiệp vụ có trình độ trung học của các địa phương, nhất là trong việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá và tổ chức đời sống trên địa bàn huyện.
Mạng lưới trường trung học chuyên nghiệp chủ yếu phân bố ở từng tỉnh, thành và do địa phương quản lý. Đối với một số ngành nghề không cần hoặc không thể có trường đào tạo ở từng địa phương, thì có thể do các ngành ở trung ương mở và trực tiếp quản lý.
4. Giáo dục đại học
Mạng lưới giáo dục đại học bao gồm các trường đại học và các trường cao đẳng.
Trường đại học có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ, đội ngũ cán bộ quản lý, có trình độ đại học và trên đại học, một lòng một dạ trung thành với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có lý tưởng cách mạng, có quyết tâm vươn tới những đỉnh cao của văn hoá, khoa học và kỹ thuật, có năng lực nghiên cứu khoa học hoặc chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn do mình phụ trách, có tiềm lực để từng bước tiến lên giải quyết những vấn đề thực tiễn do cuộc sống đề ra thuộc phạm vi nghề nghiệp của mình.
Đi đôi với các trường đại học, cần xây dựng và mở rộng một cách có kế hoạch các trường cao đẳng, nhằm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thực hành có trình độ đại học về kỹ thuật và nghiệp vụ, góp phần đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và giáo viên cho các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề, và giáo viên kỹ thuật cho các trường phổ thông.
Các trường đại học và cao đẳng đều có nhiệm vụ tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, để vừa không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, vừa góp phần phục vụ sản xuất, phát triển khoa học và kỹ thuật.
Để đáp ứng tốt yêu cầu phân công lao động xã hội theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong mạng lưới giáo dục đại học về kỹ thuật và kinh tế, cần bố trí hợp lý cách đào tạo để từng bước hình thành loại cán bộ kỹ thuật chuyên về công nghệ học và chỉ đạo sản xuất, và loại cán bộ kỹ thuật chuyên về nghiên cứu và thiết kế; loại cán bộ kinh tế chuyên về nghiệp vụ quản lý xí nghiệp, và loại cán bộ kinh tế chuyên về nghiệp vụ quản lý tổng hợp.
Trong các trường đại học về khoa học cơ bản (xã hội và tự nhiên), cần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, và điều chỉnh cơ cấu ngành học theo hướng tập trung vào những ngành chủ yếu cần thiết cho sự phát triển trước mắt và lâu dài của đất nước.
Cần xây dựng và phát triển tốt hệ đào tạo trên đại học để tạo ra một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học và kỹ thuật có trình độ cao và hệ bồi dưỡng sau đại học để giúp những người đã tốt nghiệp đại học không ngừng mở rộng kiến thức, và trau dồi nghiệp vụ.
Nội dung đào tạo của các trường đại học và cao đẳng phải toàn diện và phù hợp với mục tiêu đào tạo của từng ngành học. Về chuyên môn, học sinh đại học nói chung cần được đào tạo theo diện rộng, đồng thời có chuyên môn hoá hợp lý ngay trong quá trình đào tạo. Cần kịp thời chọn lọc và đưa vào chương trình học tập những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật thế giới; cần chú ý mở rộng kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội và quản lý tổ chức của ngành; cần đẩy mạnh việc trau dồi ngoại ngữ rất cần thiết cho việc học tập và nghiên cứu chuyên môn. Về chính trị, cần nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối, chính sách của Đảng, đạo đức cách mạng; kết hợp chặt chẽ việc học tập lý luận, cách mạng với việc rèn luyện trong thực tiễn cách mạng, chủ yếu theo ngành nghề được đào tạo; nâng cao vai trò làm chủ tập thể của học sinh trong học tập, rèn luyện, quản lý nhà trường và phục vụ xã hội. Về sức khoẻ, công tác thể dục thể thao và luyện tập quân sự trong các trường đại học và cao đẳng cần được coi trọng, không những nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào tạo toàn diện của nhà trường, mà còn nhằm góp phần đào tạo sĩ quan dự bị cho các lực lượng vũ trang nhân dân.
Cần bồi dưỡng cho học sinh đại học và cao đẳng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp cụ thể về nghiên cứu khoa học, phương pháp và tác phong công tác để giúp người cán bộ tương lai có thể chủ động làm tốt nhiệm vụ của mình. Hoạt động thực nghiệm và nghiên cứu khoa học của học sinh phải dựa vào kế hoạch đào tạo, và được thực hiện thông qua sự kết hợp học với hành, nhằm nâng cao trình độ hiểu biết lý luận cũng như năng lực giải quyết những vấn đề thực tiễn. Việc kết hợp giảng dạy, học tập với lao động sản xuất theo ngành nghề, với thực nghiệm và nghiên cứu khoa học phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý trong suốt khoá học, gắn nhiệm vụ đào tạo của nhà trường với thực tế sản xuất của xã hội, và phát triển từ thấp lên cao tuỳ theo bước tiến của học sinh trong quá trình học tập và rèn luyện. Cần xây dựng chế độ trách nhiệm của các ngành, các cơ sở sản xuất, các cơ sở nghiên cứu khoa học trong việc phối hợp với nhà trường để thực hiện tốt nguyên lý giáo dục của Đảng.
Cần cải tiến chế độ tuyển sinh vào các trường đại học và cao đẳng theo đúng đường lối, chính sách cán bộ và đào tạo nhân tài của Đảng ta, bảo đảm tuyển chọn được những thanh niên có quá trình học tập giỏi và tu dưỡng tốt trong thời gian ở trường phổ thông và trường chuyên nghiệp, bảo đảm thu nhận ngày càng nhiều những thanh niên ưu tú đã được rèn luyện trong thực tiễn cách mạng (sản xuất, chiến đấu, công tác), đặc biệt quan tâm thu nhận những thanh niên ưu tú con em các dân tộc ít người.
5. Bổ túc văn hoá và đào tạo tại chức
Bổ túc văn hoá và đào tạo tại chức là hai loại hình học tập không thoát ly sản xuất dành cho những người lớn tuổi. Những loại hình này có vị trí rất quan trọng trong hệ thống giáo dục mới, nó mở ra con đường học tập thường xuyên rộng lớn cho nhân dân lao động nước ta.
Trường, lớp bổ túc văn hoá có nhiệm vụ bồi dưỡng cho những người lao động lớn tuổi đạt trình độ văn hoá phổ thông cơ sở hoặc phổ thông trung học. Cần tiếp tục mở rộng mạng lưới trường, lớp này ở các cơ quan, nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường, hợp tác xã và xã ấp, nâng cao chất lượng giáo dục và đưa hoạt động giáo dục của các trường, lớp đó đi vào nền nếp, tạo điều kiện cho mọi người lao động lớn tuổi được học tập văn hoá ngoài giờ làm việc, góp phần nhanh chóng thực hiện việc phổ cập giáo dục phổ thông đến bậc trung học trong cả nước. Đối với những cán bộ chủ chốt và những thanh niên ưu tú, cần mở những trường, lớp tập trung ngắn hạn, nhất là ở vùng dân tộc ít người và vùng mới giải phóng. Cần tổ chức tốt việc bổ túc văn hoá cho thanh niên làm nghĩa vụ quân sự trong các lực lượng vũ trang nhân dân.
Chương trình bổ túc văn hoá có nội dung tương đương với chương trình phổ thông, song có chú ý chọn lọc những kiến thức cơ bản thích hợp với đối tượng người lớn, và có bổ sung những kiến thức kỹ thuật, nghiệp vụ và quản lý cần thiết.
Để đẩy mạnh công tác bổ túc văn hoá, cần coi trọng việc cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập, có kế hoạch sử dụng những phương tiện thông tin hiện đại và soạn những sách giáo khoa riêng có thể giúp những người lao động lớn tuổi tự học một cách dễ dàng.
Các trường, các lớp đào tạo tại chức có nhiệm vụ bồi dưỡng kiến thức khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân và nhân viên, nhằm giúp họ có thể nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, và trau dồi nghề nghiệp mà không phải thoát ly sản xuất. Cùng với sự phát triển của đất nước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhu cầu học tập tại chức ngày càng lớn và đa dạng. Vì thế, mạng lưới trường, lớp đào tạo tại chức phải được tổ chức rộng khắp và bao gồm nhiều hình thức linh hoạt, thuận tiện cho người học; nội dung đào tạo tại chức phải đạt chất lượng phù hợp với yêu cầu của từng loại đối tượng, đi từ những chương trình đào tạo hoàn chỉnh đến những chương trình bồi dưỡng chuyên đề.
Mạng lưới trường, lớp tại chức cần gắn với mạng lưới trường tập trung, nhưng có tổ chức và người phụ trách riêng. Cần thu hút đông đảo những người có trình độ khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ tham gia công tác giảng dạy; cần sử dụng tốt vào nhiệm vụ đào tạo tại chức mọi phương tiện thông tin, phát thanh, truyền hình, mọi cơ sở văn hoá công cộng (câu lạc bộ, thư viện, v.v..).
Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề có thể mở những cơ sở đào tạo tại chức ở ngay trường và ở các địa phương. Các xí nghiệp lớn có thể mở những trường, lớp tại chức bên cạnh xí nghiệp để phổ cập kỹ thuật, đào tạo và bồi dưỡng công nhân và nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ.
IV- XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng cốt cán trong sự nghiệp giáo dục, góp phần quyết định sự thành công của cải cách giáo dục.
Giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục xã hội chủ nghĩa là những chiến sĩ cách mạng trên mặt trận tư tưởng và văn hoá, có trách nhiệm truyền bá trong thế hệ trẻ lý tưởng và đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, tinh hoa văn hoá của dân tộc và của loài người, khơi dậy và bồi dưỡng trong học sinh những phẩm chất cao quý và những năng lực sáng tạo của con người lao động mới, xã hội chủ nghĩa.
Trong nhà trẻ, lớp mẫu giáo và trường phổ thông, các cô nuôi dạy trẻ, các giáo viên, và các cán bộ quản lý giáo dục là những kỹ sư tâm hồn của thế hệ trẻ, có nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục học sinh, giảng dạy tốt môn học mà mình phụ trách, làm tốt công tác quản lý, quan tâm tổ chức và hướng dẫn mọi mặt hoạt động và sinh hoạt của học sinh, giúp học sinh đạt những kết quả cao nhất trong học tập và rèn luyện. Vì thế, giáo viên (bao gồm cả cô nuôi dạy trẻ) và cán bộ quản lý giáo dục phải là những người có tâm hồn cao thượng, có kiến thức cần thiết, có nhân cách xã hội chủ nghĩa, thiết tha yêu nghề, yêu trẻ, vì tương lai của thế hệ trẻ mà phấn đấu.
Xuất phát từ nhận thức đó về vai trò và yêu cầu chất lượng của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục xã hội chủ nghĩa, trong cải cách giáo dục lần này, nhất thiết chúng ta phải làm tốt việc cải cách công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường và phát triển một đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đúng tiêu chuẩn, về cả chính trị lẫn nghiệp vụ, có cơ cấu đồng bộ phù hợp với yêu cầu giáo dục toàn diện cho học sinh, và có khả năng theo kịp sự phát triển không ngừng của xã hội mới và của thế hệ trẻ.
Cần tuyển chọn vào các trường sư phạm những học sinh ưu tú, có đạo đức tốt, có trình độ học vấn cần thiết; đồng thời, phải bố trí vào loại trường này những cán bộ giảng dạy và quản lý có đủ phẩm chất và năng lực để đào tạo có chất lượng tốt đội ngũ giáo viên xã hội chủ nghĩa.
Nội dung đào tạo và bồi dưỡng của các trường sư phạm phải toàn diện. Cần nâng cao chất lượng học tập văn hoá và khoa học, học tập phương pháp giáo dục và nghiệp vụ giảng dạy, phấn đấu làm cho tất cả giáo viên phổ thông dần dần đều có trình độ cao đẳng và đại học, tất cả các cô nuôi dạy trẻ và giáo viên mẫu giáo dần dần đều có trình độ trung học và cao đẳng. Cần coi trọng hơn nữa việc nâng cao phẩm chất chính trị và rèn luyện đạo đức cách mạng, việc đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm theo đúng nguyên lý giáo dục của Đảng. Cần có kế hoạch giúp cho học sinh sư phạm năng tiếp xúc với những đối tượng giáo dục mà mình sẽ phụ trách. Cần tổ chức cho học sinh sư phạm tham gia tích cực vào thực tiễn cách mạng ở địa phương, vào phong trào thi đua "Hai tốt", thông qua đó mà biết cách kết hợp tốt học với hành, nhà trường với xã hội. Các trường sư phạm phải liên hệ chặt chẽ với các trường tiên tiến, với các giáo viên tiên tiến, kịp thời nắm và vận dụng những kinh nghiệm tiên tiến vào công tác đào tạo và bồi dưỡng của trường mình. Từng bước xây dựng ở các trường sư phạm hệ đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phụ trách công tác Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà trường phổ thông.
Cùng các trường sư phạm, các trường đại học và chuyên nghiệp về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, thể dục thể thao có nhiệm vụ tích cực góp phần đào tạo và bồi dưỡng giáo viên cho trường phổ thông. Những cán bộ khoa học, kỹ thuật, văn hoá và nghệ thuật tham gia giảng dạy trong các trường phổ thông và các trường lớp bổ túc văn hoá cần được bồi dưỡng về phương pháp sư phạm.
Bộ Giáo dục và các Sở, Ty giáo dục cần tăng cường và mở rộng mạng lưới trường cán bộ quản lý giáo dục, kịp thời bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý về các mặt chính trị và nghiệp vụ. Có kế hoạch tuyển chọn và đào tạo những giáo viên tốt thành những cán bộ quản lý giáo dục.
Trong các trường đại học và chuyên nghiệp, cán bộ giảng dạy không những có trách nhiệm giảng dạy các bộ môn, chỉ đạo nghiên cứu, thực nghiệm khoa học và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh, mà còn có trách nhiệm giáo dục tư tưởng và đạo đức, chăm lo đến sự phát triển toàn diện của học sinh. Vì vậy, cán bộ giảng dạy ở các trường đại học và chuyên nghiệp phải là những người tiêu biểu cho lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, một lòng một dạ trung thành với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có tinh thần làm chủ tập thể, trung thực, khiêm tốn, gắn bó với nhân dân lao động, không ngừng học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, không ngừng vươn lên những đỉnh cao của kiến thức khoa học và kỹ thuật, ra sức phấn đấu làm tốt những nhiệm vụ được giao phó và tích cực góp phần xây dựng đất nước, nêu gương sáng cho học sinh noi theo.
Trong quá trình thực hiện cải cách giáo dục, chúng ta phải tăng cường và phát triển một đội ngũ cán bộ giảng dạy như vậy trong các trường đại học, cao đẳng, và trung học chuyên nghiệp; thực hiện việc tiêu chuẩn hoá các loại cán bộ giảng dạy, giải quyết tốt việc sắp xếp và sử dụng theo chế độ chức vụ khoa học, có kế hoạch tổ chức tốt công tác bồi dưỡng về các mặt chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ. Đẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng những giáo viên dạy nghề giỏi về lý luận và có tay nghề thành thạo, tuyển từ những công nhân lành nghề ưu tú. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng một đội ngũ đông đảo và vững mạnh những cán bộ giảng dạy chính trị và làm công tác chính trị trong các trường đại học và chuyên nghiệp. Đi đôi với việc tăng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ giảng dạy, cần có kế hoạch và chính sách thu hút những cán bộ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, quản lý giỏi và những công nhân lành nghề của các ngành và các địa phương tham gia công tác giảng dạy.
Cần cải tiến chế độ đãi ngộ đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, có chính sách khen thưởng thích đáng, nhằm khuyến khích những người gương mẫu, tận tâm với nghề nghiệp, được học sinh, đồng nghiệp và nhân dân tín nhiệm.
V- NHỮNG BIỆN PHÁP KHÁC BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CẢI CÁCH GIÁO DỤC
Để thực hiện cải cách giáo dục, đồng thời với việc cải cách công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, cần tiến hành tốt những biện pháp sau đây:
1. Cải tiến chương trình học và biên soạn sách giáo khoa mới
Trên cơ sở xác định mục tiêu đào tạo cụ thể của từng loại trường và từng ngành nghề, cần cải tiến chương trình học và biên soạn sách giáo khoa mới cho học sinh theo đúng những yêu cầu cải cách về nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục. Cần coi trọng việc biên soạn các loại sách tham khảo cho giáo viên. Có biện pháp huy động vào công tác cải tiến chương trình và biên soạn sách giáo khoa mới những cán bộ giỏi về khoa học và kỹ thuật, về văn học và nghệ thuật, về lý luận cách mạng, về khoa học giáo dục, và những giáo viên giỏi, những cán bộ quản lý giáo dục giàu kinh nghiệm.
Cần mở rộng và củng cố mạng lưới nhà in, nhà xuất bản và cơ sở phát hành các loại sách phục vụ công tác cải cách giáo dục, kể cả sách bổ túc văn hoá và đào tạo tại chức.
2. Tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật của các trường học
Cơ sở vật chất và kỹ thuật của trường học là những điều kiện vật chất cần thiết giúp học sinh nắm vững kiến thức, tiến hành lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, hoạt động văn nghệ và rèn luyện thân thể, v.v. bảo đảm thực hiện tốt phương pháp giáo dục và đào tạo mới.
Phối hợp những cố gắng đầu tư của Nhà nước với sự đóng góp của nhân dân, của các ngành, các cơ sở sản xuất, và sức lao động của thầy trò trong việc xây dựng trường sở, phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn trường, bổ sung thư viện, chế tạo và sửa chữa những thiết bị học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cần ban hành những quy chế nhằm tổ chức sử dụng hợp lý những thiết bị của các trường học, các viện nghiên cứu khoa học và các cơ sở sản xuất vào công tác giáo dục và đào tạo.
Đưa vào trường học những phương tiện kỹ thuật hiện đại, như máy ghi âm, điện ảnh, vô tuyến truyền hình và những phương tiện kỹ thuật nghe - nhìn khác.
Đi đôi với xây dựng mới, cần tổ chức tốt việc bảo quản và sử dụng những cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện có.
3. Kiện toàn tổ chức quản lý và tăng cường công tác quản lý của ngành giáo dục
Cần tăng cường tổ chức quản lý và công tác quản lý của các ngành giáo dục mầm non, phổ thông, chuyên nghiệp và đại học, thực hiện sự chỉ đạo thông suốt, có chất lượng và có hiệu lực từ cấp trung ương đến các trường học, phấn đấu hoàn thành thắng lợi công cuộc cải cách giáo dục. Thực hiện sự phân cấp hợp lý giữa trung ương và các tỉnh, thành, giữa các ngành giáo dục và các ngành kinh tế, văn hoá trong việc quản lý hệ thống các trường học. Xác định chức năng và tổ chức quản lý của cấp huyện về mặt giáo dục cho phù hợp với nhiệm vụ xây dựng huyện thành một đơn vị kinh tế nông - công nghiệp.
Tăng cường bộ máy quản lý của các ngành giáo dục từ trung ương đến cơ sở, bổ sung những cán bộ quản lý có năng lực, tổ chức tốt công tác thanh tra giáo dục, cải tiến công tác thống kê và kế hoạch, coi trọng công tác chỉ đạo điểm kết hợp với diện, kịp thời đúc kết và phổ biến những kinh nghiệm giáo dục tiên tiến.
Xây dựng và ban hành những quy chế mới của các nhà trẻ và lớp mẫu giáo, các trường phổ thông, chuyên nghiệp và đại học, từng bước làm cho các hoạt động của nhà trường đi vào nền nếp, thực hiện tốt quyền làm chủ tập thể của học sinh, giáo viên, nhân viên và cán bộ trong việc quản lý nhà trường.
Cần có chế độ quy định rõ sự tham gia thiết thực và có hiệu lực của Công đoàn giáo dục, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh vào công tác quản lý trường học. Những hoạt động của Đoàn và Đội phải được xếp vào kế hoạch giáo dục chung của nhà trường.
4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học giáo dục
Công tác nghiên cứu khoa học giáo dục cần được tăng cường, trước mắt, để giải quyết một cách có cơ sở khoa học những vấn đề do cải cách giáo dục đề ra; và về lâu dài, để từng bước giải quyết những vấn đề cơ bản về sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ Việt Nam, đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhằm thúc đẩy nhanh hơn nữa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Phải kết hợp những thành tựu mới nhất của khoa học giáo dục thế giới với những thành tựu và kinh nghiệm tiên tiến của nhà trường Việt Nam để xây dựng lý luận giáo dục xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Các cán bộ khoa học giáo dục phải đi sâu vào phong trào thi đua "Hai tốt", tổng kết kinh nghiệm và rút ra những kết luận khoa học về giáo dục phù hợp với đặc điểm của nước ta và của từng vùng ở trong nước.
Cần tăng cường Viện Khoa học giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, Viện Nghiên cứu giáo dục đại học và chuyên nghiệp thuộc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề thuộc Tổng cục Dạy nghề, tiến tới xây dựng Viện Khoa học giáo dục Việt Nam bao gồm nhiều viện phối hợp với nhau đi sâu vào những chuyên ngành cần thiết. Có kế hoạch đào tạo nhiều hơn nữa những cán bộ nghiên cứu khoa học giáo dục có trình độ cao.
VI- TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC, ĐỘNG VIÊN TOÀN DÂN THAM GIA CẢI CÁCH GIÁO DỤC
1. Cải cách giáo dục là một cuộc vận động lớn trong quá trình tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá ở nước ta. Nó gắn chặt với những bộ phận khác của cách mạng tư tưởng và văn hoá, với cách mạng về quan hệ sản xuất, với cách mạng khoa học và kỹ thuật. Chỉ có tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục thì mới có thể thực hiện thắng lợi sự nghiệp cải cách và phát triển giáo dục.
Các cấp uỷ Đảng cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc vị trí và vai trò quan trọng của giáo dục trong toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, phải biết gắn công tác giáo dục với nhiệm vụ xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới ở nước ta. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn đó, các cấp ủy Đảng cần nắm vững những điểm chủ yếu về phương hướng, nội dung, chủ trương và biện pháp cải cách giáo dục, từ đó mà chủ động đi sâu lãnh đạo công tác cải cách giáo dục trong phạm vi phụ trách của mình. Trong quá trình triển khai cải cách giáo dục, dựa vào việc thu thập rộng rãi ý kiến của nhân dân và cán bộ, vào việc tổng kết kinh nghiệm của những điển hình tiên tiến, chúng ta phải từng bước cụ thể hoá và làm phong phú thêm đường lối giáo dục của Đảng, tiếp tục đi sâu hoàn chỉnh những chủ trương và biện pháp cải cách giáo dục, đưa sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa tiến lên mạnh mẽ.
Cần cải tiến công tác lãnh đạo của các tổ chức Đảng trong các ngành giáo dục mầm non, phổ thông, chuyên nghiệp và đại học. Các tổ chức Đảng nhất thiết phải chăm lo cho đường lối giáo dục của Đảng được thấu suốt trong công tác hằng ngày của mỗi ngành, làm cho những chủ trương và biện pháp cải cách giáo dục được các ngành, từ trung ương đến cơ sở, chấp hành nghiêm chỉnh với tinh thần sáng tạo. Các tổ chức Đảng cần coi trọng và phát huy đầy đủ hiệu lực chỉ đạo của cơ quan quản lý giáo dục các cấp và vai trò quan trọng của các đoàn thể quần chúng trong trường học, cần giáo dục và động viên cán bộ, giáo viên, nhân viên và đông đảo học sinh ra sức phấn đấu làm tốt các mặt công tác giảng dạy, học tập, phục vụ, lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, tổ chức đời sống, v.v..
Cần coi trọng công tác xây dựng Đảng trong các ngành giáo dục, tăng cường đội ngũ đảng viên và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức Đảng trong trường học, giáo dục đảng viên luôn luôn gương mẫu về mọi mặt và đứng vững ở vị trí tiên phong, đoàn kết đông đảo anh chị em ngoài Đảng, lôi cuốn mọi người làm tốt công tác cải cách giáo dục và phát triển sự nghiệp giáo dục.
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có trách nhiệm lớn trong việc quản lý sự nghiệp giáo dục. Cần tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo của Nhà nước đối với công tác cải cách giáo dục.
Hội đồng Chính phủ có nhiệm vụ xét duyệt kế hoạch tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước; chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai từng bước công tác cải cách và phát triển giáo dục, chỉ đạo các ngành giáo dục mầm non, phổ thông, chuyên nghiệp, đại học và những ngành có liên quan nghiên cứu và ban hành những chính sách và chế độ cần thiết; chỉ đạo các cấp chính quyền và các ngành giải quyết kịp thời những yêu cầu về tài chính, vật tư, thiết bị, biên chế v.v. trong quá trình thực hiện cải cách giáo dục; phát động và tổ chức quần chúng nhân dân tích cực tham gia cải cách giáo dục. Để giúp Hội đồng Chính phủ làm tốt những nhiệm vụ trên đây, cần thành lập Uỷ ban Cải cách giáo dục Trung ương bên cạnh Hội đồng Chính phủ.
3. Các đoàn thể nhân dân cần phát huy vai trò nòng cốt của mình trong việc giáo dục và động viên toàn dân đóng góp trí tuệ, sức người, sức của vào sự nghiệp cải cách giáo dục và thực hiện đường lối giáo dục của Đảng. Coi trọng xây dựng Hội cha mẹ học sinh ở cơ sở nhằm phối hợp chặt chẽ gia đình với nhà trường để giáo dục con em và góp sức xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa. Cần đưa vào ban phụ trách của Hội những người có đạo đức, có giác ngộ chính trị, có hiểu biết về giáo dục, và được nhân dân và gia đình học sinh tín nhiệm.
Cải cách giáo dục là nhiệm vụ trọng đại trong sự nghiệp xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Nó liên quan chặt chẽ đến lợi ích thiết thân của mỗi gia đình và mỗi công dân Việt Nam; nó có ý nghĩa rất to lớn đối với tiền đồ của dân tộc ta, tương lai của Tổ quốc ta. Vì vậy, nhân dân ta giàu lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có truyền thống ham học và học giỏi, được phát động và hướng dẫn tốt, nhất định sẽ khắc phục mọi khó khăn, phát huy các nhân tố tích cực, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển giáo dục với chất lượng ngày càng cao và theo quy mô ngày càng lớn.
Cải cách giáo dục lần này là một cuộc cách mạng sâu sắc trong sự nghiệp giáo dục của nước ta. Đây là một cuộc đấu tranh rộng lớn trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, chống lại những nhận thức sai lầm, những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, phong kiến và những tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới về giáo dục còn rơi rớt trong xã hội ta và đang hạn chế sức phát triển của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một cuộc đấu tranh rộng lớn trên lĩnh vực tổ chức, chống lại những hình thức và phương pháp lạc hậu về tổ chức và quản lý giáo dục, những tác phong và thói quen lỗi thời chưa được xoá bỏ trong ngành giáo dục và những ngành có liên quan với công tác giáo dục. Hơn nữa, đây còn là một công cuộc xây dựng mới trong giáo dục, kết hợp việc phát huy những truyền thống giáo dục tốt đẹp của dân tộc ta và những kinh nghiệm giáo dục tiên tiến mà Đảng ta đã tổng kết trong mấy chục năm qua, với việc vận dụng sáng tạo những tư tưởng tiến bộ và những thành tựu hiện đại của thế giới, nhất là của các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong lĩnh vực giáo dục, nhằm làm cho công tác giáo dục gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong giai đoạn mới.
Tuy đất nước ta hiện nay còn có nhiều khó khăn, nhưng trong điều kiện mới của cách mạng, cải cách giáo dục đang có nhiều thuận lợi rất to lớn. Ngay từ lúc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã chỉ rõ nguyện vọng thiết tha của Người "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Trong Di chúc của Người, Hồ Chủ tịch căn dặn chúng ta: "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".
Thực hiện nguyện vọng thiết tha và điều căn dặn thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, chấp hành Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng, toàn Đảng, toàn dân ta cùng toàn ngành giáo dục, quyết tâm hoàn thành xuất sắc công cuộc cải cách giáo dục, góp phần tích cực vào sự nghiệp vĩ đại: xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
PHẠM VĂN ĐỒNG