Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đảng ta chính thức đưa thành đường lối chủ trương từ Đại hội III (1960). Tuy nhiên, qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, với những thay đổi của bối cảnh lịch sử trong nước, quốc tế, đã có sự phát triển từng bước tư duy lý luận của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu chắt lọc kinh nghiệm quốc tế, kết quả tổng kết thực tiễn đất nước. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hóa chính thức được khẳng định từ Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa VII, không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện qua các kỳ Đại hội Đảng.

Bác Hồ về thăm khu Gang thép Thái Nguyên năm 1964. Ảnh T.L
1. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thời kỳ trước đổi mới
Trên cơ sở Đường lối chung trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, đại hội III của Đảng xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc, đề ra chủ trương: Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại[2]". Trên cơ sở đó, trong Kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất (1961-1965) đã đề ra mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III nhận định, mấu chốt của nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và phải bắt đầu từ chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho ưu tiên phát triển công nghiệp nặng[3], đồng thời xác định các phương hướng: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương; kết hợp xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ; kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ[4].
Đại hội IV xác định: Đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ… làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc[5].
Đại hội V cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80 là: Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý[6].
2. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới
Đại hội VI, đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới, nhận định: “Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở nhận định đúng những đặc điểm cơ bản của tình hình cách mạng nước ta, Đảng ta đã kịp thời quyết định thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ. Nhưng việc đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước, đã có nhiều thiếu sót. Do đó, trong mười năm qua, đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”[7].
Đúc rút bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ”[8]. Đại hội lần thứ VI đã xác định “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[9]. Song hành với sự phát triển nhận thức và thực tiễn hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã từng bước hình thành, bổ sung phát triển và hoàn thiện quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa qua các kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới.
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội VI, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh 1991 tại Đại hội VII, với phương hướng cơ bản: phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Đề ra mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đánh giá: Mặc dù còn nhiều mặt yếu kém phải khắc phục, những thành tựu quan trọng đã đạt được đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước[10]. Cụ thể hóa quan điểm đó, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa VII đã đề ra phương hướng, chủ trương, chính sách nhằm đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước[11]; xác định: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước[12].
Đánh giá kết quả 10 năm đổi mới, Đại hội VIII nhận định: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[13], xác định “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện tại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”[14], đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp[15] với nội dung: Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện; Hình thành dần một số ngành mũi nhọn…
Đại hội IX tiếp tục khẳng định: “Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp[16]; xác định, Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm[17], nhận thức rõ: Có thể rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, dựa trên từng bước phát triển kinh tế tri thức [18] đảm bảo Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường[19], tiếp tục Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn[20]
Đại hội X đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức[21] coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn[22]; Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao; Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan toả đến các vùng khác...
Đại hội XI của Đảng thông qua Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đề ra phương hướng cơ bản, trong đó phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường, đề ra nhiệm vụ kết hợp giữa đổi mới mô hình tăng trưởng với cơ cấu lại nền kinh tế; Phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế; Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn; Phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao…
Đại hội XII xác định mục tiêu tổng quát: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mớii; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Khẳng định: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Xây dựng cơ cấu kỉnh tế và cơ cấu lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản xuất và đòi sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiến hành qua ba bưóc : tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; và nâng cao chất lượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong 5 năm tói, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững; phấn đấu sớm đưa nưóc ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; đề ra nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17 tháng 11 năm 2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XIII ban hành, đã đưa ra 05 quan điểm: (1) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, bảo đảm hài hoà giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hoá, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động. (3) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam, tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hoá các ngành công nghiệp. Coi phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt; chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. (4)
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần có lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực, có các cơ chế, chính sách đột phá, phù hợp để phát triển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng; xác định nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá. (5) Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn hoá dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ trí thức và doanh nhân Việt Nam.
Mục tiêu tổng quát đến năm 2030: Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đời sống của Nhân dân được nâng cao. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn. Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ tiên tiến. Các ngành dịch vụ được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh được nâng cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao.
Các nhiệm vụ giải pháp chủ yếu về đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có yêu cầu nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người dân; cụ thể hoá các quan điểm, gắn kết các mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với xây dựng và thực hiện luật pháp, chính sách, hệ thống quy hoạch quốc gia và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan. Thực hiện phân công, phân cấp triệt để trong quản lý nhà nước về phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; bảo đảm nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Nâng cao năng lực dự báo; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên phạm vi cả nước, từng vùng và địa phương; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp uỷ và chính quyền các ngành, các cấp trong tổ chức thực hiện. Đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể trong tổ chức thực hiện Nghị quyết đối với các cấp, cách ngành.
Để thực hiện nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 2021 – 2030 mà Nghị quyết 29-NQ/TW đã đề ra là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của đề ra quan điểm chỉ đạo: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới với các nhiệm vụ, giải pháp: Nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh; Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp; Tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số…
Những trình bày ở trên cho thấy, trong suốt 40 năm đổi mới, Đảng ta luôn chú trọng nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; không ngừng đổi mới tư duy, phát triển nhận thức để hoàn thiện chủ trương, đường lối về công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Bước chuyển quan trọng trong nhận thức về công nghiệp hoá là: Từ quan điểm công nghiệp hoá bằng con đường "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ", sử dụng vốn của Nhà nước sang chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển nhanh, bền vững, sử dụng nguồn vốn xã hội hoá theo cơ chế thị trường; từ mô hình công nghiệp hoá khép kín, hướng nội chuyển sang thực hiện mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp (hướng vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu), mô hình "công nghiệp hoá rút ngắn – hiện đại" gắn với phát triển kinh tế tri thức cho đến mô hình “công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.
Song hành với nhận thức chung về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn về mô hình, mục tiêu, đặc trưng, nội dung, bước đi và cả phương thức, nguồn lực để bảo đảm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với tình hình cụ thể trong nước và quốc tế ở từng giai đoạn. Đảng ta cũng đã từng bước nhận thức rõ hơn về yêu cầu phải gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa phù hợp với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Đến nay, đã thống nhất nhận thức về công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, bảo đảm hài hoà giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hoá, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Đồng thời đã hình thành nhận thức mới về: (1) Lựa chọn phương thức thực hiện CNH dựa trên phát triển kinh tế thị trường với sự khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh của các địa phương, vùng, miền, với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là nòng cốt, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng. (2) Tư duy về CNH rút ngắn hiện đại dựa trên điều kiện hội nhập quốc tế, khai thác lợi thế của một nước đi sau; gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức; triển khai mô hình CNH, HĐH trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. (3) Kết hợp công nghệ nhiều trình độ với đi thẳng vào công nghệ hiện đại trong một số ngành, lĩnh vực; phát triển các vùng kinh tế trọng điểm; chủ động tích cực hội nhập quốc tế và tranh thủ tối đa ngoại lực… (4) Vai trò nền tảng, trụ đỡ của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH thông qua việc coi CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu.
3. Yêu cầu đặt ra đối với vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay
Những thành tựu gần 40 năm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc nói chung đã khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới.
Bối cảnh thế giới thời gian tới có những thời cơ, thuận lợi cùng nhiều khó khăn, thách thức lớn: cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gay gắt; sự tranh chấp chủ quyền biển, đảo diễn biến phức tạp; cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina và các lệnh trừng phạt của Mỹ, Phương Tây đối với Nga có thể sẽ còn kéo dài, tác động đến địa chính trị, địa kinh tế, an ninh năng lượng và chuỗi cung ứng toàn cầu; khoa học - công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới đối với mọi quốc gia, dân tộc; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, có thể đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta... Từ đó yêu cầu đặt ra đối với vận dụng và phát triển sáng tạo luận điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm:
(1) Quán triệt sâu sắc lời dạy của Bác trong nhận thức và đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng và của Nhà nước”[23].
(2) Tiếp tục quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng về Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm đạt mục tiêu đến năm 2030: Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đời sống của Nhân dân được nâng cao.
(3) Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác dự báo, nhất là dự báo bối cảnh quốc tế, xác định đúng các chủ trương chính sách về công nghiệp hoá, hiện đại hoá với những nội dung cụ thể của từng giai đoạn phát triển, đồng thời tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
(4) Nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu từ đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đến xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách; xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng; đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hoá nhanh và bền vững; phát triển các thành phần kinh tế; đổi mới chính sách tài chính, tín dụng; quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển thị trường trong nước; phát huy giá trị văn hoá, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; đội ngũ trí thức và doanh nhân xung kích, đi đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo đảm tốt an sinh xã hội.
PGS.TS Đoàn Xuân Thủy,
Viện KTCTH, HVCTQG HCM
[1] Bài viết là kết quả nghiên cứu đề tài KX.02.20/21-25: “Nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới”
[2] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2002, Tập 21, tr.545-546
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2002, Tập 23, tr.350
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2002, Tập 23, tr.356-359
[5] ĐCSVN (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., tập 37, tr.524
[6] ĐCSVN (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., tập 43, tr.71
[7] ĐCSVN (2006), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., tập 47, tr.360
[8] ĐCSVN (2006), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., tập 47, tr.363-364
[9] ĐCSVN (2006), Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., tập 47, tr.376
[10] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2007, Tập 53, tr.196
[11] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2007, Tập 53, tr.412
[12] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2007, Tập 53, tr.415
[13] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2015, Tập 55, tr.356
[14] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2015, Tập 55, tr.366
[15] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2015, Tập 55, tr.366
[16] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2016, Tập 60, tr 183
[17] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2016, Tập 60, tr 241
[18] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2016, Tập 60, tr. 184
[19] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2016, Tập 60, tr.239
[20] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2016, Tập 60, tr.245
[21] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2018, Tập 65, tr.191
[22] ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQGST, H., 2018, Tập 65, tr.192
[23] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQGST., H., 2011, Tập 13, tr.71