
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến
Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh: Tư liệu
Đại thắng mùa Xuân 1975 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người. Chiến thắng đánh dấu sự kết thúc vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Cội nguồn của thắng lợi vĩ đại ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng cách mạng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và thời đại để lãnh đạo Nhân dân đi đến thắng lợi cuối cùng.
Đảng xác định rõ mục tiêu, đề ra đường lối và hình thức đấu tranh thích hợp
Ngay sau Hiệp định Geneva năm 1954, Đảng đã nhận định rõ âm mưu của đế quốc Mỹ trong việc thay thế thực dân Pháp, chia cắt lâu dài đất nước ta. Hội nghị Trung ương 6 (tháng 7/1954) xác định: kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc Mỹ. Nhận thức rõ nguy cơ này, Đảng đã vạch ra chiến lược đấu tranh phù hợp với tình hình, chuyển từ giai đoạn hòa bình sang đấu tranh cách mạng.
Hội nghị Trung ương 15 (tháng 1/1959) đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng khi quyết định sử dụng bạo lực cách mạng để đánh đổ chính quyền tay sai, giải phóng miền Nam. Quyết định này được đưa ra sau quá trình phân tích sâu sắc tình hình thực tế, khi phương thức đấu tranh chính trị đơn thuần không còn đủ sức lật đổ chế độ tay sai của Mỹ. Việc lựa chọn con đường bạo lực cách mạng thể hiện sự nhạy bén của Đảng trong đánh giá tình thế, đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn cách mạng miền Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) tiếp tục hoàn thiện đường lối cách mạng với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Sự phân chia nhiệm vụ này không chỉ phản ánh sự linh hoạt của Đảng trong việc tận dụng thế mạnh từng vùng mà còn đảm bảo sự phối hợp chiến lược chặt chẽ giữa hai miền.
Trong đó, miền Bắc được xác định là hậu phương vững chắc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa làm chỗ dựa vững chắc về chính trị, quân sự, kinh tế cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Điều này thể hiện rõ qua các chính sách công nghiệp hóa, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng nhằm tạo nguồn lực dồi dào để chi viện cho chiến trường miền Nam. Miền Bắc trở thành hậu phương chiến lược, không chỉ cung cấp nhân lực mà còn bảo đảm vũ khí, lương thực, tài chính cho cách mạng miền Nam, giữ vai trò quyết định trong cuộc kháng chiến.
Trong khi đó, miền Nam là chiến trường trực tiếp đối đầu với đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, cùng sự chi viện của miền Bắc, quân dân miền Nam đã kiên cường chiến đấu, lần lượt đánh bại từng chiến lược chiến tranh của Mỹ. Qua từng giai đoạn, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang tiến công và phản công, đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bên cạnh xác định rõ mục tiêu, đề ra đường lối, Đảng ta cũng xác định rõ hình thức đấu tranh cách mạng phù hợp với từng thời điểm. Trong giai đoạn đầu, khi lực lượng còn non yếu, Đảng chủ trương đấu tranh chính trị, đồng thời vận động quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng. Khi tình hình chín muồi, Đảng chuyển sang đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị, tiến hành chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Song song đó, Đảng đẩy mạnh hoạt động ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, cô lập kẻ thù trên trường quốc tế. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các hình thức đấu tranh chính trị - quân sự - ngoại giao đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Dự báo chính xác tình hình, chớp thời cơ, quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam
Sau Hiệp định Paris năm 1973, Đảng ta đã dự đoán chính xác những diễn biến của tình hình chiến trường và chính trị quốc tế. Đảng nhận định rằng đế quốc Mỹ tuy đã rút quân nhưng vẫn tiếp tục viện trợ mạnh mẽ cho chính quyền Sài Gòn, đồng thời quân đội ngụy vẫn còn tiềm lực đáng kể. Do đó, Đảng xác định chiến lược "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao để giành thắng lợi cuối cùng.
Hội nghị Trung ương 21 (năm 1973) đã đề ra quyết tâm tiếp tục con đường bạo lực cách mạng, đồng thời theo dõi chặt chẽ diễn biến chiến trường. Đến giữa năm 1974, nhận thấy sự suy yếu rõ rệt của chính quyền Sài Gòn, Bộ Chính trị quyết định đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, đồng thời chủ trương cho thành lập các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh để tạo khả năng đánh các đòn quyết định. Theo đó, từ tháng 3/1975, ta đã thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) có sức cơ động mạnh để đánh địch trong các trận quyết chiến chiến lược.
Song song với chuẩn bị lực lượng mạnh, Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu chủ động chuẩn bị thế trận và chiến trường theo hướng tạo thế hiểm và bí mật, bất ngờ để chủ động đánh địch. Theo đó, Bộ Chính trị chỉ đạo chọn Tây Nguyên là chiến trường mở màn trọng điểm với hướng tiến công chiến lược từ phía Nam đánh lên. Việc chọn Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch trong chiến tranh.
Đúng như dự kiến của Đảng, trận mở màn ở Buôn Ma Thuột đã giành thắng lợi giòn giã, quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, lúng túng cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, tạo ra sự chấn động mạnh, đẩy chúng đến chỗ cùng quẫn, hoảng loạn. Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, tạo nên bước ngoặt quyết định, làm thay đổi hoàn toàn cục diện chiến trường miền Nam. Chớp thời cơ, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tiếp tục chỉ đạo quân và dân ta ở miền Nam mở Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, chỉ đạo Quân khu 5 kết hợp với Bộ tư lệnh Hải quân mở chiến dịch giải phóng các đảo do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: “Thời cơ chiến lược tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết tâm lớn hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4/1975”. Đầu tháng 4/1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”, với ý chí “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ thời gian, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến, quyết thắng”, bộ đội và nhân dân ta trên khắp các chiến trường đã dũng mãnh xông lên với quyết tâm “tất cả cho thắng lợi”.
Sau 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thần tốc truy đuổi quân địch đến tận sào huyệt cuối cùng, bằng trận quyết chiến chiến lược lịch sử - Chiến dịch Hồ Chí Minh, miền Nam được hoàn toàn giải phóng. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá cờ cách mạng của quân và dân ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của bè lũ bán nước và xâm lược.
Phát huy cao độ nghệ thuật quân sự
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển đến đỉnh cao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trải qua hơn 20 năm chiến tranh ác liệt, từ những trận đánh nhỏ lẻ đến các chiến dịch quy mô lớn, quân và dân ta đã vận dụng linh hoạt các phương thức tác chiến, kết hợp hiệu quả giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, phát triển nghệ thuật quân sự phù hợp với thực tiễn chiến trường.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đã xác định phương châm chiến lược là “chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính”. Đây là sự kế thừa và phát triển từ tư tưởng quân sự truyền thống của ông cha, đồng thời có sự sáng tạo để phù hợp với thực tiễn chiến trường hiện đại. Trong thế đối đầu với một kẻ thù có tiềm lực quân sự vượt trội, quân và dân ta đã linh hoạt kết hợp các hình thức đấu tranh: vừa đánh du kích, vừa tổ chức các trận đánh lớn, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và đấu tranh chính trị, ngoại giao. Điều này không chỉ làm tiêu hao sinh lực địch mà còn làm suy giảm ý chí chiến đấu, buộc phải thay đổi chiến lược nhiều lần nhưng vẫn không thể giành chiến thắng.
Trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến, nghệ thuật quân sự Việt Nam không ngừng phát triển, đặc biệt là trong việc tổ chức và chỉ huy các chiến dịch lớn. Điển hình như trận Ấp Bắc (1963), dù lực lượng còn yếu, quân và dân miền Nam đã lần đầu tiên đánh bại một trận càn lớn của Mỹ, ngụy, chứng minh rằng quân đội ta hoàn toàn có thể đối đầu với quân đội hiện đại. Tiếp đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã tạo ra một bước ngoặt chiến lược, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xem xét lại toàn bộ chính sách chiến tranh tại Việt Nam. Đến năm 1972, với Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, quân và dân ta đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 của Mỹ, buộc Washington phải ký Hiệp định Paris và rút quân khỏi miền Nam. Những chiến thắng này cho thấy nghệ thuật quân sự Việt Nam không chỉ là sức mạnh vũ trang mà còn là sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngoại giao.
Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là Đại thắng mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Nếu như những năm đầu kháng chiến, ta chủ yếu dựa vào chiến tranh du kích thì đến năm 1975, quân đội ta đã đủ mạnh để tổ chức một cuộc tổng tiến công quy mô lớn, áp dụng nghệ thuật tác chiến hiện đại. Đảng ta đã chỉ đạo chiến lược “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”, trong vòng 55 ngày đêm, quân ta tiến công dồn dập, đánh chiếm các cứ điểm quan trọng từ Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và cuối cùng là Sài Gòn, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là minh chứng rõ nhất cho sự trưởng thành vượt bậc của nghệ thuật quân sự Việt Nam, khi quân đội xuất phát từ chiến tranh du kích, đã tiến lên chính quy, hiện đại và giành thắng lợi quyết định.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cách đây 50 năm của nhân dân ta do Đảng ta và Bác Hồ kính yêu lãnh đạo đã để lại cho chúng ta hôm nay những thành quả vĩ đại cùng những giá trị lịch sử trường tồn. Đó là chân lý không có quý hơn độc lập, tự do, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng và thực hiện đường lối đúng đắn sáng tạo độc lập tự chủ, tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đó là tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện với nghệ thuật quân sự sáng tạo phong phú cả về phương pháp cách mạng và phương pháp tiến hành; đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, xây dựng mặt trận thống nhất trong cả nước và trên thế giới; đó là xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ để sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định của mọi thắng lợi./.
Theo TTXVN