
Vấn đề xác định, xây dựng, phát huy và phát triển văn hóa Đảng[1] trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xã hội đang có những biến động lớn về văn hóa dưới tác động của nhiều yếu tố mới tạo nên bối cảnh mới. Trong nội hàm của biến động văn hóa có nội dung biến động hệ giá trị. Những tác động đa chiều, nhiều hướng của nền kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển mới, của sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng công nghiệp, của toàn cầu hóa, của những vấn đề toàn cầu trên thế giới là một chiều cạnh. Sự nghiệp đổi mới của nước ta nói chung của kinh kinh tế thị trường, của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế trong bốn thập niên vừa qua là chiều cạnh thứ hai. Những nhân tố của hai chiều cạnh đó đã và đang tác động mạnh mẽ, gây những hiệu ứng chưa từng có đến văn hóa và hệ giá trị Việt Nam, trong đó có văn hóa Đảng. Nội dung căn bản, nền tảng của văn hóa Đảng là hệ giá trị văn hóa Đảng.
Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và hệ thống chính trị được khởi xướng và triển khai quyết liệt từ Đại hội X của Đảng đến nay vẫn đang tiếp tục trong điều kiện mới với những nội dung và phương thức mới đòi hỏi xác định rõ ràng văn hóa Đảng, mà nội dung căn bản, nền tảng là hệ giá trị văn hóa Đảng, để góp phần tích cực vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng và hệ thống chính trị hiện nay.
Nhìn bao quát cả về lý luận lẫn thực tiễn, các cộng đồng, tổ chức xã hội tiến bộ càng có tuổi đời dài lâu thì càng có hệ giá trị văn hóa vững chắc. Hệ giá trị văn hóa đó hình thành và phát triển, được củng cố và bồi đắp trong quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng, tổ chức đó. Đó là đặc điểm chung của hệ giá trị văn hóa ở tất cả các cộng đồng, tổ chức xã hội tiến bộ. Nhưng với Đảng Cộng sản, việc hình thành và phát triển của hệ giá trị văn hóa có những nét đặc thù, khác biệt.
Hệ giá trị văn hóa Đảng của Đảng Cộng sản ra đời và thể hiện một cách tổng thể, nhưng mang tính cơ bản, nền tảng ngay trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Văn hóa và nhân văn cao nhất, cốt lõi nhất trong hệ giá trị văn hóa Đảng Cộng sản là giải phóng con người, giải phóng nhân loại, mà trước hết là giải phóng về phương diện chính trị - xã hội, trên cơ sở đó để tiến tới giải phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công. Đó là phương diện quan trọng, là nội dung đầu tiên, là tiền đề trước nhất của việc giải phóng con người và nhân loại khỏi mọi phương diện khác: phương diện lực lượng sản xuất, phương diện văn hóa, phương diện kinh tế, phương diện quyền và phương diện cơ hội phát triển, v.v. Hệ giá trị văn hóa Đảng trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” bao hàm đầy đủ cả những nội dung của các hệ giá trị quá khứ, hiện tại và tương lai. Việc nghiên cứu, xác định hệ giá trị văn hóa của Đảng ta hiện nay về nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận, nhất thiết phải dựa trên nền tảng hệ giá trị cộng sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của các nhà sáng lập học thuyết về xã hội cộng sản.
Trong suốt quá trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ giá trị văn hóa Đảng được hình thành, củng cố và phát triển. Nó chứa đựng và kết tinh những nội dung văn hóa tiến bộ, tích cực, văn minh, nhân văn của văn hóa và hệ giá trị Việt. Hệ giá trị Việt trong giai đoạn hiện nay bao hàm nhiều hệ giá trị chủ yếu, cơ bản và những hệ giá trị không cơ bản, thứ yếu[2]. Trong hệ giá trị Việt các hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia là những hệ giá trị chủ yếu, nền tảng, cơ bản, quan trọng. Các hệ giá trị khác như hệ giá trị đạo đức, hệ giá trị tôn giáo, hệ giá trị truyền thống, hệ giá trị nhóm, hệ giá trị vùng miền, v.v. là những cấu thành không thể thiếu. Hệ giá trị văn hóa Đảng là một cấu thành trong hệ giá trị văn hóa, nhưng là cấu thành cực kỳ quan trọng. Nó cũng là một trong những cấu thành của hệ giá trị cộng đồng, nhưng là cộng đồng đặc biệt, cộng đồng những người tiên phong, ưu tú, lãnh đạo, cầm quyền, quản lý xã hội, do vậy nó có những đặc thù và đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ giá trị Việt đương đại.
Trong hệ giá trị văn hóa Đảng luôn có mặt dưới những hình thức khác nhau của hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị tộc người, hệ giá trị đạo đức với những giá trị cốt lõi của chúng. Đảng là lực lượng chính trị đang lãnh đạo và cầm quyền, đại diện cho lợi ích của xã hội, cho các tộc người, các tầng lớp, cho quốc gia – dân tộc, đại diện cho sự phát triển, tiến bộ, văn minh của quốc gia cả trong quan hệ quốc tế. Do vậy, hệ giá trị văn hóa Đảng cần phải và tất yếu phải bao hàm nhiều nội dung của các hệ giá trị đó cùng với những giá trị riêng của hệ giá trị văn hóa Đảng.
Hệ giá trị văn hóa Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng tạo dựng ngay từ trước khi thành lập Đảng kế thừa, kết tinh các hệ giá trị của dân tộc và của nhân loại, được củng cố, phát huy và phát triển trong quá trình lãnh đạo dân tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc gần một thế kỷ qua. Hệ giá trị văn hóa Đảng thời kỳ lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có những đặc điểm chung và cả những đặc điểm khác biệt thời kỳ cầm quyền lãnh đạo và tổ chức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Hệ giá trị văn hóa Đảng thể hiện cụ thể, sinh động theo từng thời kỳ các giá trị phổ quát cao nhất của nhân loại và dân tộc là Chân, Thiện, Mỹ. Nó là nội dung cốt lõi của văn hóa Đảng, mà Đảng là bộ phận ưu tú nhất, tiên phong nhất của dân tộc. Bởi vậy, hệ giá trị văn hóa Đảng là nhân tố đặc biệt quan trọng, vừa quy định và vừa thể hiện năng lực lãnh đạo, khả năng cầm quyền của Đảng. Đảng “là đạo đức, là văn minh” bởi mang trong mình hệ giá trị văn hóa Đảng tiến tiến của dân tộc và thời đại. Hệ giá trị văn hóa Đảng là kết tinh, hội tụ, trầm tích những điểm tinh túy, tiến bộ của Đảng trong hơn 90 năm xây dựng và phát triển. Nhưng đồng thời nó cũng luôn bao chứa trong mình sứ mệnh lịch sử trước dân tộc và toàn thế giới, dù điều đó ở các thời kỳ lịch sử khác nhau được hàm chứa theo những “liều lượng” và cách thức khác nhau. Hệ giá trị văn hóa Đảng có trong toàn bộ các tư tưởng, lý luận, quan điểm, đường lối, chủ trương, mục tiêu, tổ chức, hoạt động của Đảng, cũng như trong mối quan hệ bên trong của các tổ chức Đảng, trong quan hệ của Đảng với dân, với đảng phái khác, với toàn thể quốc gia – dân tộc.
Hệ giá trị văn hóa Đảng là nhân tố tham gia quy định các mục tiêu, mục đích hoạt động và động cơ thúc đẩy hoạt động vì các mục tiêu, mục đích của Đảng trong quá trình xây dựng và phát triển của mình. Hệ giá trị văn hóa Đảng còn được Đảng “sáng tạo” trong quá trình tồn tại và phát triển của Đảng. Hiện chưa thể kể ra được hết các giá trị cụ thể trong hệ giá trị văn hóa Đảng, dù chỉ là các giá trị trong giai đoạn hiện nay. Cần có quá trình nghiên cứu hệ thống để xác định hệ các giá trị văn hóa Đảng và xác định rõ các giá trị cốt lõi.
Các giá trị văn hóa Đảng tạo nên hệ giá trị văn hóa Đảng, trong đó mỗi giá trị có vị trí thang bậc xác định, có những giá trị cốt lõi và những giá trị có vị trí, vai trò và ảnh hưởng khác nhau đến từng mặt, phương diện trong tiến trình hoạt động của Đảng. Nhưng vị trí thang bậc đó không phải là nhất thành bất biến mà là thay đổi theo những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, xã hội cụ thể, xác định. Khi các quan hệ xã hội thay đổi, tương quan lực lượng, lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ quốc tế biến đổi thì trật tự thang bậc, hệ giá trị, cũng sẽ bị thay đổi.
Cùng với sự phát triển của quốc gia – dân tộc, của xã hội, sự trường thành của Đảng hệ giá trị văn hóa Đảng cũng sẽ có những thay đổi theo xu hướng cô đọng, chưng cất, bổ sung nội dung từ các giá trị cốt lõi, căn bản, nền tảng, chung, phổ quát của các hệ giá trị chủ yếu, cơ bản thông qua tổng kết thực tiễn và bổ sung lý luận. Trong quá trình đó, có thể sẽ có một số nội dung cụ thể của một vài giá trị sẽ biến mất, một số nội dung mới sẽ được bổ sung, làm phong phú thêm, phản ánh đầy đủ hơn các quan hệ xã hội và thực tiễn hoạt động của Đảng và xã hội.
Hệ giá trị văn hóa Đảng luôn có sức nặng của khía cạnh đạo đức. Đó là truyền thống và văn hóa Việt Nam, là xuất phát từ đặc thù của các giá trị đạo đức trong hệ giá trị Việt Nam có vai trò và có ảnh hưởng rất to lớn. Sức nặng, ảnh hưởng và tác động của đạo đức đến đảng viên, con người và xã hội Việt Nam nói chung luôn hiện hữu. Đây cũng chính là nét đặc thù của hệ giá trị văn hóa Đảng hiện nay.
Hệ giá trị văn hóa Đảng được lưu giữ, truyền bá qua các thế hệ, trở thành tài sản, hành trang của các tổ chức đảng và mỗi đảng viên, mang theo suốt cuộc đời. Hệ giá trị văn hóa Đảng, một mặt, luôn giữ vai trò định hướng cho tư duy, nhận thức và hoạt động của Đảng, các tổ chức đảng và đảng viên. Nó là một loại “hành lang”, là “khung mẫu” cho hành động, cho tư duy, cho các hoạt động, cho cả điều hành, hoạch định và thực thi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của quốc gia, thậm chí cả các quy ước, quy chế cộng đồng, của cơ quan và của các cá nhân trong Đảng, trong các hệ thống chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng.
Hệ giá trị văn hóa Đảng vừa mang tính kế thừa – kết tụ, tính “chế định”, tính vượt trước. Kế thừa – kết tụ bởi nó là truyền thống, kết tinh các phẩm chất, tinh hoa, là kết quả của sự phát triển của Đảng, của quốc gia – dân tộc, của văn hóa, thậm chí của các cộng đồng, gia đình, con người Việt từ ngàn xưa tới nay. “Chế định” với nghĩa hệ giá trị văn hóa Đảng luôn là khuôn mẫu, hành lang tích cực và tiến bộ cho hoạt động thực tiễn và nhận thức của đảng viên và các tổ chức đảng. Đảng viên và các tổ chức Đảng luôn lấy các giá trị trong đó làm mẫu hình, so sánh, đối chiếu, làm theo. “Vượt trước” bởi hệ giá trị văn hóa Đảng là định hướng, là mục tiêu, là tiêu chí mà mọi đảng viên, tổ chức Đảng luôn phải hướng tới, theo đó vươn lên, hoàn thiện và phát triển, bởi trong hệ giá trị văn hóa Đảng luôn chứa đựng những yêu cầu, đòi hỏi, xu thế phát triển của thời đại của quốc gia – dân tộc mà các đảng viên và tổ chức đảng phải vươn tới thực hiện.
Hệ giá trị văn hóa Đảng luôn là nguồn lực, động lực của sự phát triển của đảng viên và các tổ chức Đảng. Đó là nguồn lực nội sinh, nguồn lực đặc biệt có vai trò thúc đẩy, định hướng các hoạt động của tất cả đảng viên và tổ chức đảng. Cũng giống như các hệ giá trị Việt khác hệ giá trị văn hóa Đảng luôn hiện hữu, tiềm tàng, ẩn chứa trong mỗi đảng viên và tổ chức đảng, trong toàn Đảng, luôn luôn cần được khơi dậy, làm bùng cháy lên, phát huy, khai thác và phát triển cho đảng viên và các tổ chức Đảng ở các thế hệ khác nhau.
Trong quan hệ với đảng viên và các tổ chức đảng, hệ giá trị văn hóa Đảng có những chức năng khác nhau, qua đó xác định vị trí, vai trò và ý nghĩa xã hội của nó. Các chức năng cơ bản của hệ giá trị văn hóa Đảng bao gồm: chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng chuẩn mực, chức năng định hướng, chức năng động lực, chức năng giảm sốc, chức năng di truyền xã hội. hệ giá trị văn hóa Đảng như một tổng thể cũng như mỗi một giá trị đơn lẻ trong đó đều có đầy đủ các chức năng đó. Nhưng, mức độ nặng nhẹ, lớn nhỏ, mạnh yếu của các chức năng đó lại khác nhau tùy theo giai đoạn, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, v.v.
Trong đời sống thực tại, hệ giá trị văn hóa Đảng luôn tồn tại, có lúc nổi lên, có lúc chìm sâu trong tư tưởng, tâm lý, tâm thức và ý thức mối đảng viên và tổ chức đảng. Nó như là một trong những dạng thức thể chế cộng đồng vô hình và hữu hình. Thể chế ấy được trao truyền qua các thế hệ đảng viên bằng cả con đường chính thức lẫn phi chính thức, chính thống lẫn phi chính thống, tự giác lẫn vô thức. Tính chất “di truyền xã hội” là cơ chế sinh tồn và tác động của hệ giá trị văn hóa Đảng cũng tương tự như của các hệ giá trị Việt trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc – quốc gia.
Cũng phải nói thêm rằng, chức năng động lực của hệ giá trị văn hóa Đảng có nghĩa là các hệ giá trị có vai trò thúc đẩy tư duy, hành vi, hoạt động của các đảng viên và tổ chức Đảng. Trong thực tế, các đảng viên, tổ chức đảng luôn tuân theo các giá trị khi suy nghĩ, xác định các mục tiêu, các hoạt động, khi đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động của mình. Hệ giá trị văn hóa Đảng luôn tham gia vào quá trình này, thúc đẩy hoạt động tích cực của các đảng viên và tổ chức đảng trong mọi hoàn cảnh khác nhau. Hệ giá trị văn hóa Đảng là nguồn lực bất tận, có thể được khai thác, phát huy, phát triển bởi nhiều thế hệ khác nhau. Chúng cũng có thể được khai thác cùng lúc bởi từng đảng viên, từng tổ chức đảng hoặc rất nhiều đảng viên và tổ chức đảng trong nhiều lĩnh vực, ngành, nghề, địa bàn, địa phương khác nhau. Họ có thể khai thác hệ giá trị văn hóa Đảng không ngừng nghỉ, càng khai thác nó càng phát triển và được phát huy tác dụng mạnh mẽ thúc đẩy đảng viên và tổ chức đảng hoạt động tốt hơn, hữu hiệu hơn. Giống như “ngọc càng mái càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, hệ giá trị văn hóa Đảng càng được khai thác, phát huy, sử dụng càng trở nên là động lực mạnh mẽ cho Đảng. Trái lại, nếu không sử dụng thì nó có thể dần chìm sâu xuống đáy tâm thức đảng viên.
Đối với Đảng và quốc gia – dân tộc, hệ giá trị văn hóa Đảng là nguồn lực nhân văn đặc biệt cần được khai thác, sử dụng, phục vụ phát triển Đảng, phát triển đất nước. Nguồn lực ấy, khác với các nguồn lực khác, với các yếu tố đầu vào khác của sản xuất, là chúng càng được sử dụng càng trở nên phát triển, bất tận, dùng không hết, cùng lúc có thể được nhiều đảng viên, nhiều tổ chức Đảng, các thế hệ kế tục nhau dùng. Khai thác, phát huy, phát triển tốt hệ giá trị văn hóa Đảng làm cho Đảng thêm vững mạnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền càng được nâng cao. Tìm ra phương thức khai thác, phát huy, phát triển hệ giá trị văn hóa Đảng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay. Một đảng chính trị mà đánh mất văn hóa đảng thì đảng đó không còn sức sống, không sớm thì muộn sẽ không thể tồn tại và phát triển. Vì vậy, xác định, xây dựng và phát triển văn hóa đảng là một trong các nội dung xây dựng đảng cực kỳ quan trọng bên cạnh các nội dung khác về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, đảng viên.
Ở nước ta hiện nay các hệ giá trị nói chung, hệ giá trị văn hóa Đảng nói riêng đang có những biến động với nhiều biểu hiện khác nhau, có ảnh hưởng đến mọi đảng viên và tổ chức đảng, đến công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Nhưng những biến động đó là tất yếu của sự phát triển của Đảng, của xã hội trong thời kỳ chuyển đổi với những bối cảnh đặc thù. Điều đáng chú ý là dù biến động mạnh nhưng hệ giá trị văn hóa Đảng nói riêng, hệ giá trị Việt Nam nói chung, vẫn phát huy tốt các chức năng, vai trò: nhận thức, đánh giá, chuẩn mực, định hướng, động lực, giảm sốc, di truyền xã hội và tiếp tục được phát huy, bổ sung, phát triển.
Với một số chiều cạnh phân tích trên đây, có thể sơ bộ rút ra rằng hệ giá trị văn hóa Đảng là những yếu tố tích cực, những phẩm chất, đặc tính, đặc trưng, đặc điểm, hoặc các nội dung, yêu cầu trong các quan hệ xã hội, thể hiện thực chất những quan hệ của Đảng Cộng sản Việt Nam (cả trong và ngoài Đảng) vì lợi ích nhân dân, được hình thành và trao truyền trong suốt quá trình xây dựng Đảng, lãnh đạo và cầm quyền tổ chức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có ý nghĩa tích cực, tốt đẹp, tiến bộ, thúc đẩy phát triển Đảng, hệ thống chính trị và phát triển đất nước.
Cần phân biệt hệ giá trị văn hóa Đảng và hệ chuẩn mực văn hóa đảng. Cả hệ giá trị văn hóa Đảng lẫn chuẩn mực văn hóa Đảng đều trực tiếp hoặc gián tiếp bị chi phối và thể hiện lợi ích của quốc gia, dân tộc, nhân dân ở những giai đoạn, thời kỳ cụ thể. Hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Đảng cũng như hệ giá trị văn hóa Đảng đều là sản phẩm quá trình nhận thức của Đảng, đều có vai trò định hướng cho các tổ chức đảng và đảng viên trong hoạt động hàng ngày. Cả hai đều là khung khổ, “khuôn mẫu”, “hành lang”, quy định suy nghĩ và hành động cùa các tổ chức Đảng và đảng viên, là “khuôn vàng, thước ngọc” để đánh giá, định vị họ. Chúng đều thể hiện chân, thiện, mỹ, và cũng đều hướng tới chân - thiện - mỹ. Hệ giá trị văn hóa Đảng cũng như hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Đảng không phải cứ hình thành xong là bất biến, cố định vĩnh cữu mà là biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh, điều kiện cụ thể, có thể được bổ sung nội dung, yếu tố, có thể bị loại bỏ dần, có thể được kết hợp, thống hợp với các chuẩn mực, giá trị khác.
Nhưng, hệ giá trị văn hóa Đảng và hệ chuẩn mực văn hóa Đảng không phải là một. Một số học giả lập luận rằng các giá trị cũng là chuẩn mực, hoặc chuẩn mực chỉ là biểu hiện khác của các giá trị. Nhưng theo chúng tôi, cả từ góc độ lý luận lẫn thực tế, các giá trị luôn ở “tầm” bao quát, bao phủ, khái quát rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, và có vai trò định hướng cho các chủ thể dài lâu hơn, “vững bền” hơn chuẩn mực. Mỗi nội dung, yếu tố, hoặc mỗi giá trị có thể là chuẩn mực trực tiếp, có thể một giá trị được thể hiện thành nhiều chuẩn mực. Trong khi đó, các chuẩn mực ở “tầm” thấp hơn giá trị, gắn chặt với các hành vi, hoạt động cụ thể và tương thích cho những hoàn cảnh cụ thể. Chuẩn mực là cụ thể hóa các giá trị vào từng hoàn cảnh cụ thể. Giá trị mang tính định hướng, tính phương pháp luận, cần nhận thức và suy ngẫm trước khi quyết định thực hiện, còn chuẩn mực mang tính công cụ, sẵn có, cần lựa chọn, phải dùng ngay được. Các chuẩn mực biến đổi, thích ứng với hoàn cảnh, “phản ứng” với lợi ích nhanh hơn, linh hoạt, cơ động hơn các hệ giá trị.
Các chuẩn mực con người gắn chặt với lợi ích cụ thể và sự biến động của chúng. Trong vòng đời của mỗi cá nhân, người ta tiếp nhận và sử dụng chuẩn mực trước khi tiếp nhận và sử dụng các giá trị. Một đứa bé sinh ra và lớn lên đã phải tuân thủ chuẩn mực trước khi biết đến giá trị. Trong gia đình đứa bé được trao truyền các chuẩn mực trước khi được trao truyền và hiểu được giá trị. Khi lớn lên, bước vào xã hội nó cũng được trao truyền các chuẩn mực trước khi được tiếp xúc và hiểu biết về giá trị[3]. Con người thường thông qua các chuẩn mực để đạt tới các giá trị, khi đạt tới giá trị thì củng cố và “chuẩn xác” hóa hơn về chuẩn mực. Ở các tầng lớp xã hội khác nhau có thể cùng chung các giá trị nhất định, nhưng lại có thể khác nhau về chuẩn mực.
Hệ giá trị và hệ chuẩn mực đều có nguồn gốc là nhu cầu ổn định và phát triển xã hội, phải điều chỉnh các quan hệ xã hội của các chủ thể, mà ở đây là đảng viên và các tổ chức đảng. Các giá trị lẫn chuẩn mực đều thể hiện bản chất các quan hệ xã hội. Nhưng chuẩn mực thường hướng tới các quan hệ xã hội cụ thể của đời sống thường ngày. Các giá trị như là những chuẩn mực chung hướng tới các quan hệ xã hội bản chất, sâu sắc và chậm thay đổi hơn. Các chuẩn mực và giá trị đều có một số chức năng giống nhau, như: nhận thức, chuẩn mực, động lực, định hướng, giáo dục, bảo vệ, giảm “sốc”. Nhưng, nội dung của từng chức năng ở các chuẩn mực và ở các giá trị lại không hoàn toàn giống nhau[4]. Chẳng hạn, với chức năng định hướng, ở các giá trị, quy mô, mức độ sâu rộng của nó lớn hơn, với những nội dung sâu sắc, căn bản, có tính chất nền tảng, áp dụng cho mọi hoàn cảnh, mang tính nguyên tắc, còn các chuẩn mực thường chỉ ở cấp độ hành vi, áp dụng cho một hoàn cảnh xác định, cụ thể. Chuẩn mực tương tự như hình thức của giá trị, giá trị là nội dung của nó. Chuẩn mực đã có thay đổi trong khi giá trị được chuẩn mực đó thể hiện vẫn không thay đổi. Đấy cũng là thực chất của quan hệ giữa hệ giá trị văn hóa Đảng với hệ chuẩn mực văn hóa Đảng và hệ chuẩn mực đảng viên nói chung.
Thực tế những năm gần đây, nhiều vụ kỷ luật Đảng, nhiều vụ án tham nhũng, hối lộ, lạm quyền, lộng quyền, làm trái pháp luật và các quy định của đảng, trái với đạo đức xã hội được công khai trong Đảng và trên các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy, nhiều đảng viên đã không thấm nhuần, thiếu nhận thức đầy đủ, đúng đắn hệ giá trị văn hóa Đảng. Điều đó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, kỷ luật Đảng, và đương nhiên, làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng với chế độ. Những dấu hiệu, những điểm đen báo hiệu về khủng hoảng giá trị Việt, hệ giá trị văn hóa Đảng đã hiện rõ. Thực tế đó đỏi hỏi công tác xây dựng Đảng cần chú ý nhiều hơn, quyết liệt hơn, thường xuyên, liên tục hơn, với những giải pháp hữu hiệu hơn đến những vấn đề về hệ giá trị văn hóa Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa Đảng nói chung và hệ giá trị văn hóa Đảng nói tiêng, bao gồm nhiều giá trị khác nhau, nhưng các giá trị cốt lõi trong hệ giá trị văn hóa Đảng bao gồm:
Thứ nhất là trung thành lý tưởng cộng sản và lợi ích quốc gia – dân tộc. giá trị này luôn là nguyên tắc xếp hàng đầu. Đây cũng là giá trị nền tảng, trước tiên, phân định bản chất đảng viên, cán bộ công quyền với người dân bình thường. Giá trị này xuất phát từ nền tảng lý luận về đảng cộng sản, và từ lý luận về xã hội cộng sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Giá trị này cũng xuất phát từ yêu cầu bức thiết của thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam và tiến trình lịch sử dân tộc, văn hóa quốc gia và vai trò, sứ mạng của Đảng trước quốc gia dân tộc, của các lực lượng ưu tú vì tiến bộ và phát triển xã hội. Giá trị này là nền tảng cho các giá trị khác và cho hệ chuẩn mực văn hóa đảng. Giá trị này đòi hỏi phải nhận thức sâu sắc lý tưởng cộng sản và lợi ích quốc gia, thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc, trên cơ sở lý luận khoa học và xu thế phát triển tất yếu của quốc gia dân tộc. Giá trị này bao chứa trong nó tinh thần yêu nước trong thời đại ngày nay, gắn liền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai là “cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. Đảng viên và tổ chức đảng trong quá quá trình lãnh đạo và cầm quyền luôn là thành viên của hệ thống chính trị, nên đây vừa là yêu cầu, khung khổ, nguyên tắc sống và hoạt động của tất cả các đảng viên, tổ chức đảng. Giá trị này vừa thể hiện giá trị thứ nhất nói trên, vừa là yêu cầu bức thiết của thực tiễn xây dựng đảng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí hiện nay. Đó cũng là “chuẩn mực”, yêu cầu với cán bộ, đảng viên mà Hồ Chủ tịch đã tổng kết, khái quát và nêu thành nguyên tắc. Giá trị này đòi hỏi càng cao đối với đảng viên và các tổ chức đảng càng giữ vị trí cao trong hệ thống chính trị và trong xã hội hiện nay. Nếu không thấm nhuần giá trị này thì không thể là đảng viên và cán bộ, không thể là “công bộc”, không thể là “đầy tớ” của nhân dân.
Thứ ba là trí tuệ, trách nhiệm, sáng tạo. Giá trị này thực chất bao hàm ba giá trị thành phần. Trí tuệ là trình độ chuyên môn phải cao, phải đủ tầm, đủ năng lực để đảm bảo được, để xứng đáng với vị trí, vai trò, lãnh đạo, cầm quyền, định hướng của đảng viên và tổ chức Đảng. Trong thời đại cách mạng khoa học – công nghệ, cách mạng công nghiệp hiện nay, đảng viên và tổ chức đảng không trí tuệ thì không xứng đáng lãnh đạo, cầm quyền. Trách nhiệm là dám nghĩ, dám làm, dám quyết, dám đi đi đầu, đứng trước, dám hy sinh lợi ích cá nhân vì việc lớn, vì dân, vì lý tưởng, vì lợi ích quốc gia – dân tộc. Trách nhiệm cũng có nghĩa là không thụ động, không ỷ lại, dám nhìn thẳng vào năng lực, khả năng của chính mình để học tập không ngừng, công hiến không nghỉ, không lùi bước trước khó khăn, gian khổ, thách thức, trước tiêu cực và các phản giá trị, phản tiến bộ. Sáng tạo là đòi hỏi ngày càng cao trong bối cảnh đất nước đang đòi hỏi phát triển nhanh, bền vững trong thời kỳ mới, thời kỳ vươn mình của dân tộc, để khắc phục nguy cơ tụt hậu, theo kịp các nước có nền kinh tế phát triển cao trên thế giới. Đảng lãnh đạo và cầm quyền tất yếu đòi hỏi phải sáng tạo thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ và sứ mạng trước nhân dân. Bản thân người dân ngày nay cũng đã phải sáng tạo không ngừng, là người cầm quyền, lãnh đạo trong xã hội không sáng tạo thì không thể có quan điểm lý luận mới, đường lối mới, cách làm mới, phương hướng mới, và do không thể phát triển chính bản thân Đảng và cả xã hội, sẽ trở thành rào cản đối với sự phát triển nói chung. Cả ba giá trị thành phần này gắn bó chặt chẽ với nhau, không thể thiếu một, dù là giá trị nào.
Thứ tư là tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng. Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, là lý tưởng của các tổ chức Đảng và mỗi đảng viên, của cả dân tộc. Đây cũng là mục tiêu, lý tưởng của loài người tiến bộ trong suốt quá trình sinh tồn và phát triển. Đây cũng là phương thức hoạt động của toàn Đảng và mỗi tổ chức đảng. Nếu trong Đảng thiếu tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng, thì đảng sẽ không thể lớn mạnh. Nếu Đảng không vì tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng, thì nhân dân sẽ không tin theo Đảng. Nói cách khác, giá trị văn hóa đảng này có hai chiều cạnh, chiều hướng nội và chiều hướng ngoại. Hướng nội là nó tác động trong quan hệ giữa các đảng viên và các tổ chức đảng, hướng ngoại là tác động trong quan hệ giữa đảng với nhân dân, với quốc gia - dân tộc và các cộng đồng khác. Giá trị văn hóa này là giá trị phổ quát toàn nhân loại, nhưng nội dung và yêu cầu, đinh hướng của nó lại có những khác biệt với các thời kỳ lịch sử với các cộng đồng, nhóm xã hội, các lực lượng, phong trào xã hội khác nhau, với các trình độ khác nhau của các lực lượng sản xuất và với các loại hình quan hệ sản xuất khác nhau. Trong bối cảnh cách mạng khoa học – công nghệ và cách mạng công nghiệp đang phát triển nhanh chóng như hiện nay, những tiền đề kỹ thuật – công nghệ cho giá trị tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng, đã rất sẵn có, dễ tiếp cận hơn bất cứ khi nào trong quá khứ. Nhờ đó giá trị cốt lõi thứ tư này cũng có điều kiện thuận lợi để phát huy, phát triển trong thực tế hơn bao giờ hết.
Thứ năm là luật pháp, tiến bộ và nhân văn. Đây cũng là những nội dung cốt lõi của văn hóa Đảng. Cũng tương tự như các giá trị cốt lõi khác, giá trị thứ năm này cũng là giá trị đa thành phần. Pháp luật là đòi hỏi tất yếu của thời đại và là yêu cầu của sự phát triển. Lãnh đạo và cầm quyền tổ chức xây dựng và bảo vệ tổ quốc không thể thiếu pháp luật. Xã hội và các tổ chức xã hội tuân thủ pháp luật thì mới có thể phát triển. Đảng vừa phải thượng tôn pháp luật và vừa phải tổ chức, quản lý, lãnh đạo, cầm quyền theo pháp luật. Pháp luật là phương thức quản lý xã hội tốt nhất so với các phương thức khác ở từng thời kỳ phát triển của xã hội. Tiến bộ cũng là một trong những mục tiêu, cầu vọng, nội dung, phương thức hoạt động của xã hội nói chung và của Đảng nói riêng.
Tiến bộ ở đây theo nghĩa là xu hướng phát triển vừa tuân theo quy luật khách quan, vừa đáp ứng đúng đắn, hợp lý lợi ích của nhân dân, mang lại những hiệu ứng tiến lên theo quy luật phát triển xã hội. Tiến bộ cho tất cả xã hội và cho mỗi người, cho tất cả tổ chức Đảng và cho mọi đảng viên. Tiến bộ xã hội tạo tiền đề và điều kiện cho tiến bộ cá nhân và tiến bộ cho cá nhân là điều kiện và tiền đề cho tiến bộ xã hội. Tiến bộ luôn là lợi ích của Đảng và của dân tộc, không thể tách rời. Tách rời tiến bộ của Đảng và của dân tộc sẽ tạo hệ lụy nguy hiểm là tách Đảng khỏi dân tộc. Nhân văn là bản chất của văn hóa Đảng và văn hóa dân tộc Việt là “đạo đức, là văn minh” của Đảng. Nhân văn vừa chứa đựng vừa là biểu hiện thành nghĩa tình, thủy chung, vừa là văn hóa vừa là đạo đức của đảng viên và các tổ chức đảng. Hợp lý, hợp luật, hợp tình là ba mặt không tách rời nhau trong từng chính sách, chủ trương, chỉ đạo, điều hành, quản lý, lãnh đạo, cầm quyền hiện nay, thể hiện đậm nét tính luật pháp, tiến bộ, nhân văn.
Năm giá trị trên đây là những giá trị cốt lõi, nền tảng của hệ giá trị văn hóa Đảng trong giai đoạn hiện nay. Chúng không tách rời nhau, tạo thành một khối thống nhất, vừa là tiền đề cho các giá trị khác trong hệ giá trị văn hóa Đảng, vừa có quan hệ với nhiều hệ giá trị khác như hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị con người. Các hệ giá trị cốt lõi, nền tảng này cũng là cơ sở, tiền đề quy định các chuẩn mực đảng viên[5]. Nội hàm của các giá trị cốt lõi, nền tảng bao chứa nhiều nội dung và nhiều khía cạnh khác nhau. Nội hàm, nội dung và quan hệ giữa các giá trị thành phần cũng như giữa chúng với các hệ giá trị khác cùng với phương thức triển khai, phát huy, phát triển chúng đang rất cần được tiếp tục làm rõ. Trong thời kỳ mới việc xây dựng văn hóa Đảng mà cốt lõi, nền tảng là xây dựng hệ giá trị văn hóa Đảng phải trở thành một nội dung trọng yếu của xây dựng Đảng. Điều này cần được đưa vào dự thảo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV sắp tới với tính cách là một nhiệm vụ xây dựng Đảng./.
PGS.TSKH. Lương Đình Hải,
Nguyên Viện Trưởng Viện Nghiên cứu Con người.
TS. Đinh Thị Phượng,
Học viện Chính trị khu vực III
[1] Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi sử dụng các thuật ngữ “văn hóa Đảng” ,“văn hóa của tổ chức Đảng”, với nội hàm như nhau.
[2] Không cơ bản, thứ yếu ở đây không có nghĩa là không quan trọng, kém tích cực, tác động yếu, mà chủ yếu là trong quan hệ với các hệ giá trị cơ bản, chủ yếu, chúng phụ thuộc vào các hệ giá trị cơ bản, chủ yếu.
[3] Hiếu đễ là một giá trị, lời chào lễ phép khi vừa gặp, lời mời trước khi ăn,… là những chuẩn mực thể hiện giá trị đó.
[4] Xem thêm: Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Triết học, số 2 (381) – 2023