Sign In

Đột phá thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới ​

08:54 06/03/2025

 

1. Yêu cầu đối với thể chế phát triển trong kỷ nguyên mới

Kỷ nguyên là một chặng đường lịch sử trong tiến trình phát triển của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và của cả nhân loại. Chặng đường ấy được đánh dấu bằng sự phát triển về chất chứ không chỉ về lượng, được nhớ tới với những dấu ấn đặc biệt, những thành tựu vĩ đại và quan trọng nhất là nếu hoàn thành các nhiệm vụ, các mục tiêu của kỷ nguyên ấy thì sẽ tạo tiền đề, điều kiện để mở ra bước phát triển mới, thời kỳ mới cho dân tộc.

 

 

Ở Việt Nam, sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của chúng ta tăng vượt bậc. Đất nước đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử, tạo ra tiềm lực và vị thế mới. Đây là một trong những tiền đề quan trọng để đất nước vững chắc tiến vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, kỷ nguyên mới là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.

Đích đến của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển theo chế độ xã hội Xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Theo đó, yêu cầu đối với thể chế phát triển trong kỷ nguyên mới phải đột phá, đi thẳng vào hiện đại, vào những lĩnh vực công nghệ cao, những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế; khai thác hiệu quả các nguồn lực phát triển; xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, tạo sự phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an nình, đối ngoại. Bên cạnh đó, đột phá thể chế phát triển phải giải quyết triệt để những điểm nghẽn, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước. Hai quá trình này phải được tiến hành song song, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó đi thẳng vào hiện đại là cơ bản, có ý nghĩa quyết định; khắc phục, giải quyết những bất cập, điểm nghẽn là cấp bách, quan trọng để tiến vào kỷ nguyên mới.

2. Những vấn đề đối với thể chế phát triển ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện thể chế được xác định là một trong ba khâu đột phá chiến lược để tạo xung lực mới có sức lan tỏa mạnh, giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Trọng tâm đột phá thể chế cũng được xác định khá rõ, đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng xác định trọng tâm đột phá thể chế là thể chế phát triển, nhấn mạnh đến ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển.

Thực tế, trong thời gian qua, thể chế phát triển đã có những bước tiến dài và ngày càng tiến bộ. Hệ thống pháp luật kinh tế được hoàn thiện, không chỉ mở theo chiều rộng nhằm đảm bảo sự phát triển an toàn của tất cả các hoạt động kinh doanh mà còn được hoàn thiện theo chiều sâu, phù hợp với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường theo thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật kinh tế đã tạo nền tảng pháp lý thống nhất, bình đẳng hơn cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quyền tự do kinh doanh được mở rộng, giảm mạnh các rào cản hành chính, giúp cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh. Trong những năm gần đây, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức rà soát, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm tháo gỡ các “rào cản”, khơi thông mọi nguồn lực cho đầu tư, kinh doanh. Đặc biệt, từ năm 2014, hàng năm, Chính phủ ban hành các nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhiều văn bản pháp luật ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung theo hướng cắt giảm thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, đặc biệt các văn bản quy định về đầu tư, kinh doanh, thuế, hải quan,...

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, thể chế vẫn là điểm nghẽn lớn, kìm hãm quá trình cải cách và phát triển kinh tế, đặc biệt nhìn dưới các khía cạnh quản trị quốc gia, trọng tâm là hệ thống pháp luật, thực thi pháp luật và hiệu lực, hiệu quả chính phủ/ chính quyền. Cụ thể:

Một là, hệ thống pháp luật phức tạp, thiếu tính ổn định, hay thay đổi, ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của các chủ thể thị trường.

Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam gồm: Hiến pháp; luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,... Bên cạnh đó còn có các văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,...

Thực tế, từ lâu, cộng đồng doanh nghiệp (cả trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài), đều cho rằng hệ thống pháp luật ở nước ta thiếu tính ổn định, nhiều văn bản pháp luật có tuổi thọ khá ngắn, liên tục sửa đổi, bổ sung. Hệ thống pháp luật thiếu ổn định và khó tiên liệu đã tác động đến tâm lý e ngại, không muốn đầu tư dài hạn, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo ra những bất lợi đối với môi trường kinh doanh như rủi ro chính sách, rủi ro pháp lý và nguy cơ dẫn đến hành chính hóa, hình sự hóa các vấn đề kinh tế, dân sự, có thể ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh, kế hoạch đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Hơn nữa, số lượng văn bản pháp luật khá lớn và thường xuyên thay đổi cũng làm cho các doanh nghiệp mất khá nhiều thời gian để tìm hiểu và thực hiện. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cộng đồng doanh nghiệp cho rằng sự phức tạp của các quy định pháp luật là một trong những điều phiền hà và trở ngại lớn nhất cho doanh nghiệp trong tuân thủ thủ tục hành chính. Doanh nghiệp mất khá nhiều thời gian để có thể nắm bắt và thực hiện đúng các quy định, tạo gánh nặng chi phí thời gian liên quan đến tìm hiểu và thực thi các quy định pháp luật.

Hai là, chất lượng hệ thống pháp luật chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; ở nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh, quy định pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của nhà đầu tư trong và ngoài nước, trở thành rào cản trong quá trình gia nhập thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế.

Thời gian qua, mặc dù môi trường đầu tư kinh doanh được tập trung cải thiện với trọng tâm rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, người dân tham gia hoạt động kinh doanh nhưng những cải thiện trong hệ thống pháp luật về môi trường kinh doanh không đáng kể, đặc biệt khi so sánh với các nước khác.

Theo Báo cáo B-Ready 2024[1] của Ngân hàng Thế giới, mặc dù đã có nhiều cải cách, cải thiện nhưng nhiều chỉ số về môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn ở mức trung bình hoặc mức thấp so với các quốc gia khác. Đối với chỉ số gia nhập thị trường, Việt Nam đứng ở mức trung bình với thứ hạng 29/50 nước đạt 65,47 điểm (cao nhất là Hy Lạp xếp thứ 1/50 với điểm số 95,58), trong đó khung pháp luật gia nhập thị trường của Việt Nam đạt 72,23 điểm (đứng thứ 46/50 nước). Đối với chỉ số về lao động, Việt Nam xếp ở thứ hạng khá cao 9/50 quốc gia nhưng khung pháp luật về lao động chỉ đứng thứ 28/50 nước. Đối với chỉ số về dịch vụ tài chính, Việt Nam đứng thứ 34/50 nước và khung pháp luật về dịch vụ tài chính đứng thứ 49/50 nước. Đối với chỉ số về hành chính thuế, Việt Nam đứng thứ 23/50 và khung pháp luật về thuế đứng thứ 42/50 nước.

Tương tự, trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, mặc dù Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng nhưng việc thể chế hóa thành khung pháp luật còn hạn chế. Hệ thống chính sách, pháp luật về chuyển giao công nghệ, sàn giao dịch công nghệ còn chưa đồng bộ, thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo động lực cho thương mại hóa, đẩy mạnh cung - cầu công nghệ;... Theo đó, chất lượng pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế. Theo Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2022-2024 của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, điểm số và thứ hạng về thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam có xu hướng giảm, từ 60,6 điểm đứng thứ 51/132 (năm 2022) còn 50,5 điểm đứng thứ 58/132 (năm 2024), trong đó chỉ số thành phần về chất lượng quy định giảm từ 41,2 điểm đứng thứ 83/132 (năm 2022) xuống 30,5 điểm đứng thứ 95/132 nền kinh tế.

Theo khảo sát Chỉ số Niềm tin kinh doanh (BCI) của Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) quý IV/2023 (công bố tháng 01/2024), chất lượng pháp lý, quy định hành chính và thủ tục tiếp tục là chủ đề làm phiền lòng doanh nghiệp. Theo đó, có tới 34% số người được hỏi cho rằng “các quy tắc và quy định không rõ ràng và được giải thích khác nhau” cũng là một thách thức lớn, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết của việc rõ ràng và nhất quán trong khuôn khổ pháp lý.

Ba là, khoảng trống pháp luật trong phát triển kinh tế còn khá lớn; nhiều cơ chế, chính sách tạo đột phá, khai thác các nguồn lực mới, đặc biệt các mô hình kinh tế mới, chưa đầy đủ hoặc chậm được nghiên cứu ban hành.

Khung pháp luật cho áp dụng các mô hình kinh tế mới chưa đầy đủ. Việc nghiên cứu, ban hành khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát còn chậm. Đối với kinh tế xanh/ kinh tế tuần hoàn, khung chính sách chủ yếu mới dừng lại ở việc đề xuất hướng tiếp cận và tập trung vào tăng trưởng xanh. Đối với các mô hình kinh tế mới trong kinh tế số như mô hình kinh tế chia sẻ, các mô hình tài chính kỹ thuật số... chưa có quy định pháp luật phù hợp.

Bốn là, hiệu lực thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế; tình trạng pháp luật chưa được thực thi nghiêm túc vẫn xảy ra ở nhiều ngành, lĩnh vực. Theo Chỉ số pháp quyền của Dự án Tư pháp thế giới (WJP Rule of Law Index), hiệu lực thực thi pháp luật của Việt Nam năm 2024 đã có cải thiện đáng kể so với năm 2023, tăng 12 bậc từ 103/142 (năm 2023) lên 92/142 quốc gia, vùng lãnh thổ (năm 2024). Tuy nhiên, điểm số và thứ hạng của Việt Nam vẫn khá thấp, nhất là so với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khi chỉ đứng ở vị trí 12/15 quốc gia. Tương tự, theo Chỉ số quản trị toàn cầu (WGI) của Ngân hàng Thế giới, mặc dù chỉ số pháp quyền (rule of law) của Việt Nam đã cải thiện nhưng năm 2023, Việt Nam vẫn đứng vị trí 107/214 quốc gia, vùng lãnh thổ với 50,5 điểm thứ hạng phần trăm (thang điểm 0 đến 100).

Năm là, cải cách hành chính, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phòng chống tham nhũng lãng phí được đẩy mạnh trong những năm gần đây nhưng kết quả thực hiện chưa như kỳ vọng. Hiệu lực, hiệu quả của các cấp chính quyền chưa cao. Trật tự, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; còn một số biểu hiện vi phạm đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức. Theo Chỉ số quản trị toàn cầu (WGI) của Ngân hàng Thế giới, chỉ số hiệu lực, hiệu quả của chính phủ/ chính quyền (government effectiveness)[2] có xu hướng giảm cả điểm thứ hạng phần trăm và vị trí, từ 60,5 điểm (năm 2021) với vị trí 87 xuống 56,1 điểm (năm 2023) với vị trí 95/214 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Nguyên nhân của những vấn đề trong thể chế phát triển kể trên là công tác xây dựng pháp luật còn nhiều bất cập như thời hạn yêu cầu soạn thảo, ban hành một số văn bản pháp luật, chưa đảm bảo đủ thời gian để thực hiện các quy trình, thủ tục theo quy định; việc tiếp thu, giải trình ý kiến của các cơ quan thẩm định, tổ chức, cơ quan có liên quan chưa đầy đủ, rõ ràng, đặc biệt việc giải trình không tiếp thu. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực làm công tác xây dựng và thực thi pháp luật còn thiếu, tính chuyên nghiệp còn hạn chế; khả năng dự báo và tầm nhìn trong công tác xây dựng pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu; việc tổ chức, triển khai thực hiện chưa nghiêm, thiếu chế tài mạnh để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật,...

3. Một số giải pháp đột phá thể chế phát triển đưa đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, trong nhiều bài viết, bài phát biểu ở nhiều diễn đàn khác nhau, đặc biệt diễn đàn Quốc hội, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đưa ra quan điểm đổi mới tư duy, cải cách phương thức lập pháp nhằm xóa bỏ điểm nghẽn về thể chế. Có thể tổng hợp các chỉ đạo của Tổng Bí thư theo các nguyên tắc sau: Thể chế kinh tế phải thúc đẩy sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm người đứng đầu trong xây dựng thể chế kinh tế, kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm; tính khả thi phải là nguyên tắc tối thượng trong xây dựng và thực thi pháp luật; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp; hành lang pháp lý phù hợp với xu hướng phát triển mới, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế. Theo đó, để tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, tạo đột phá thể chế phát triển, khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển các mô hình kinh tế mới, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển, đưa đất nước vươn lên trong kỷ nguyên mới, cần tập trung vào các nhóm giải pháp sau:

Một là, đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật, lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, lắng nghe tiếng nói của người dân, của doanh nghiệp – những người chịu sự chi phối bởi luật. Cơ quan soạn thảo, xây dựng văn bản pháp luật cần đi sát với doanh nghiệp, đi sâu vào thực tế để hiểu đúng, hiểu trúng vấn đề mà người dân, doanh nghiệp cần. Quy định pháp luật phải tạo động lực, không gian mới, kiến tạo cho phát triển đất nước. Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh hơn đến nâng cao chất lượng thể chế và hiệu lực, hiệu quả thực thi thể chế đảm bảo kỷ luật, kỷ cương, thượng tôn pháp luật. Có chế tài rõ ràng và xác định trách nhiệm, đặc biệt trách nhiệm của người đứng đầu trong xây dựng (cả chất lượng, tiến độ) và thực thi thể chế.

Hai là, đổi mới phương thức, quy trình, cách thức xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng văn bản pháp luật, đảm bảo tính ổn định, dài hạn và nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng pháp luật.

- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm tính chuyên nghiệp, khoa học, hiệu quả, kịp thời, đáp ứng những yêu cầu, thay đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học công nghệ. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật.

Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong quá trình soạn thảo, thẩm định, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản pháp luật; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quy định chế độ trách nhiệm và có chế tài xử lý đối với tổ chức, cá nhân ban hành văn bản pháp luật sai, kém chất lượng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế; sửa đổi, bổ sung chế tài để các chủ thể kinh tế tuân thủ pháp luật theo hướng cân bằng lợi ích, kinh tế hóa thay vì hình sự hóa các quan hệ kinh tế.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát huy vai trò phản biện xã hội, giải trình và tiếp thu ý kiến của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện dân cử, các chuyên gia, các nhà khoa học trong xây dựng pháp luật; khuyến khích, trân trọng ý kiến tham gia phản biện của cộng đồng doanh nghiệp, người dân trong quá trình lập pháp.

- Tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp; khắc phục tình trạng luật thiếu tính ổn định, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, trong công tác xây dựng pháp luật.

- Tập trung phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng, năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, xây dựng đội ngũ làm luật chuyên nghiệp, có năng lực chuyên môn tốt và am hiểu thực tiễn; nâng cao trình độ dự báo và tầm nhìn trong công tác xây dựng pháp luật để tăng khả năng đáp ứng yêu cầu phát sinh mới, đảm bảo tính ổn định, lâu dài của hệ thống pháp luật. 

Ba là, tiếp tục tập trung rà soát hệ thống pháp luật, tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, bãi bỏ những rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.

Tập trung xóa bỏ sự chồng chéo, xung đột của các văn bản quy phạm pháp luật, chồng chéo, xung đột giữa các văn bản pháp luật gây ra sự không rõ ràng, khó khăn cho việc thực thi, tuân thủ pháp luật. Tập trung hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, nhất là thể chế phân cấp, phân quyền, thể chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển các ngành, các mô hình kinh tế mới.

Bốn là, tập trung hoàn thiện, lấp đầy khoảng trống pháp luật nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, tận dụng các cơ hội mới, mô hình kinh tế mới, tạo động lực mới cho phát triển.

- Cần có cơ chế, chính sách đột phá nhằm tạo động lực cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và ứng dụng các kết quả này vào sản xuất.

- Ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích hình thành lực lượng doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và doanh nghiệp nhà nước có vai trò dẫn dắt, mở đường trong một số lĩnh vực, ngành kinh tế.

- Tập trung nguồn lực sửa đổi, bổ sung và xây dựng hệ thống các luật mới nhằm khai thác tốt hơn các cơ hội mới, tạo động lực tăng trưởng mới. Sớm ban hành cơ chế, chính sách để phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế số.

Năm là, đẩy mạnh triển khai thực hiện pháp luật, đảm bảo nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; có chế tài mạnh, đủ sức răn đe để nâng cao tính tuân thủ pháp luật của các chủ thể trong nền kinh tế.

Sáu là, tập trung thực hiện tinh gọn bộ máy hành chính, tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ từ nhà nước quản lý sang nhà nước kiến tạo, phục vụ và quản trị; đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản trị nhà nước; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản trị nhà nước, đặc biệt các thành tựu công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (blockchain),...; đẩy mạnh phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số, chính quyền điện tử, chính quyền số.

Bảy là, tập trung triển khai thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương, nhất là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới theo, đặc biệt các giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

 
TS. Trần Thị Hồng Minh
 

[1] Ngân hàng Thế giới dừng thực hiện Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) từ tháng 9/2021. Báo cáo B-Ready (Business Ready) là cách tiếp cận mới của Ngân hàng Thế giới để đánh giá môi trường kinh doanh và đầu tư tại các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. B-READY đánh giá môi trường kinh doanh của các nền kinh tế thông qua khung pháp lý, việc cung cấp các dịch vụ công cho các doanh nghiệp và hiệu quả triển khai trong thực tế. B-READY tập trung vào 10 chủ đề (Gia nhập thị trường; Địa điểm kinh doanh; Kết nối dịch vụ điện nước; Lao động; Dịch vụ tài chính; Thương mại quốc tế; Thuế; Giải quyết tranh chấp; Cạnh tranh thị trường và Phá sản doanh nghiệp) theo 3 giai đoạn vòng đời của doanh nghiệp: (i) Thành lập doanh nghiệp, (ii) Vận hành (hoặc mở rộng) doanh nghiệp và (iii) Đóng cửa (hoặc tổ chức lại) một doanh nghiệp

[2] Chỉ số hiệu lực, hiệu quả của chính phủ/ chính quyền (government effectiveness) đo lường chất lượng dịch vụ công, chất lượng dịch vụ dân sự, chất lượng xây dựng và thực hiện chính sách cũng như độ tin cậy trong cam kết của các cấp chính quyền đối với những chính sách đó.

Tag:

File đính kèm