Phát huy vai trò tích cực của mô hình khu công nghiệp sinh thái với chiến lược phát triển bền vững của quốc gia

Thứ sáu, 16/09/2022 14:58
(ĐCSVN) - Trong hơn 30 năm hình thành và phát triển, các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT) đã được ghi nhận vai trò to lớn trong các thành tựu phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) của Việt Nam, trong đó có sự lớn mạnh về quy mô của nền kinh tế, tạo việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh và thu nhập, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, đổi mới công nghệ, thúc đẩy hội nhập, cải thiện vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh là xu hướng tất yếu

Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc, bên cạnh những đóng góp quan trọng như đã đề cập, các KCN, KKT cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta cũng đối diện với không ít thách thức. Việc phát triển KCN, KKT theo chiều rộng gặp khó khăn do nguồn lực về lao động, đất đai, tài nguyên đã tới hạn, trong khi năng suất lao động, hiệu quả khai thác tài nguyên chưa cao; chưa đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và an sinh xã hội; các ưu đãi về thuế, đất đai đang có xu hướng giảm dần; liên kết và hợp tác sản xuất công nghiệp trong KCN, KKT của Việt còn hạn chế. Do vậy, việc phát triển KCN, KKT cần có những mô hình mới với các cơ chế chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thu hút đầu tư và tận dụng được cuộc CMCN lần thứ 4.0.

leftcenterrightdel
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc (Ảnh: MPI) 

Thứ trưởng Bích Ngọc cho biết, tại Việt Nam, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đã được xác định là một trong những phương hướng, nhiệm vụ trong Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2020. Các cơ chế, chính sách mới ban hành/phê duyệt gần gây của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Nghị định số 35/2022/NĐ-CP về quản lý KCN, KKT, trong đó quy định về mô hình KCNST; Đề án phát triển Kinh tế tuần hoàn tại VN; Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia (TTXQG) giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch hành động (KHHĐ) TTXQG giai đoạn 2021-2030…) đã thể hiện khát vọng của Việt Nam hướng tới một quốc gia phát triển bền vững.

Đặc biệt, Nghị quyết XIII của Đảng vừa qua đã thông qua định hướng và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2025, 2030 và 2045 với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH đất nước, đến năm 2025, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt 50%. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ, quyết liệt nhiều nhiệm vụ, giải pháp với tư duy mới, đột phá táo bạo hơn nữa và có bước đi phù hợp.

Đối với KCN và KKT, tinh thần khẩn trương và quyết liệt đẩy mạnh quá trình xanh hoá và phát triển bền vững đã được Đảng và Chính phủ cụ thể hoá thành những văn bản quan trọng, trong đó có: Nghị quyết số 23-NQ/TW về xây dựng chính sách phát triển CN quốc gia; Nghị quyết số 50-NQ/TW về nâng cao hiệu quả thu hút ĐTNN của Bộ Chính trị, nâng cao nhận thức của cả hệ thống Chính trị về KCN, KKT; Nghị định số 35/2022/NĐ-CP… Đây có thể nói là quyết tâm chính trị rất lớn của Việt Nam - một nước đang trong quá trình phát triển, chuyển đổi và mới chỉ có hơn 3 thập kỷ CNH-HĐH đất nước.

Cũng theo Thứ trưởng Ngọc, từ năm 2015 đến năm 2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) đã phối hợp với UNIDO, SECO và các nhà tài trợ khác triển khai thí điểm mô hình khu công nghiệp sinh thái (KCNST) tại Ninh Bình, Đà Nẵng và Cần Thơ. Theo đó, đã có trên 72 doanh nghiệp thực hiện hơn 900 giải pháp tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch hơn, tiết kiệm 76 tỷ đồng/năm và huy động được khoảng 207 tỷ đồng từ khu vực tư nhân, cắt giảm được 32 Kilo tấn khí CO2 hằng năm, bước đầu đem lại hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.

leftcenterrightdel
 Mô hình KCNST ngày càng hiệu quả (Ảnh: MPI)

Trong giai đoạn 2020 - 2023, Chính phủ Thuỵ Sỹ tiếp tục hỗ trợ 03 KCN tại TP HCM, Hải Phòng và Đồng Nai phát triển chuyển đổi sang mô hình KCNST theo khung quốc tế, là tiền đề để nhân rộng mô hình này trên cả nước.

Thực tế bước đầu cho thấy, mô hình KCNST chỉ thực sự phát huy vai trò tích cực đối với với chiến lược phát triển bền vững của quốc gia khi được nhân rộng trên cả nước, với các hỗ trợ về chính sách, công nghệ, tài chính, thông tin và cơ chế kết nối chặt chẽ giữa các cơ quan trong nước và các tổ chức quốc tế. Theo đó, cần có thêm các hướng dẫn về quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của các Bộ ngành và hướng dẫn về kỹ thuật từ các chuyên gia trong nước, quốc tế, đặc biệt đối với các mạng lưới cộng sinh công nghiệp và giải pháp kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, việc bổ sung chính sách ưu đãi về tài chính cho các KCNST, doanh nghiệp sinh thái như miễn, giảm thuế, tiền thuê đất, ưu tiên vay vốn tín dụng… là cần thiết để khuyến khích doanh nghiệp tự thực hiện việc chuyển đổi và xây dựng mới KCNST.

Đặc biệt, chuyển dịch KCN theo hướng xanh, bền vững muốn thành công cần phải có sự cam kết hỗ trợ về mặt tài chính/kỹ thuật thực sự từ các đối tác phát triển.

Với vai trò là cơ quan đầu mối trong triển khai Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát KTXH quốc gia, cũng như vai trò tham mưu cho Chính phủ trong hoạch định chính sách, quản lý nhà nước về KCN, KKT, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho rằng, cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế và chính sách của các nước về xây dựng, huy động nguồn lực phát triển KCN sinh thái cùng các bài học khuyến nghị với Việt Nam. Tiếp đến, chú ý tới các đề xuất để cụ thể hóa và tổ chức triển khai các quy định về KCNST tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP. Song song là tạo lập khuôn khổ luật pháp cần thiết để tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển ổn định, thực chất và hiệu quả KCNST tại Việt Nam. Trong quá trình triển khai cũng cần chủ động nhận biết thuận lợi và khó khăn khi chuyển đổi các KCN truyền thống sang KCN sinh thái, phát huy vai trò của các cơ quan nhà nước trong quá trình này đồng thời triển khai một cách có hiệu quả công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát; chế tài trong việc chuyển đổi và phát triển mới các KCNST.

Thực tế hiện nay, chúng ta đều chung một nhận thức rằng việc chuyển đổi theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trong các KCN, KKT là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo phát triển bền vững cho từng KCN, KKT, cho từng địa phương và cả nền kinh tế. Lợi ích này là to lớn và lâu dài, nhưng trong ngắn hạn, nhiều thách thức trở ngại làm cho quá trình chuyển đổi chưa diễn ra mạnh mẽ như mong đợi. Do đó, tin tưởng rằng, sẽ có thay đổi một cách toàn diện đối với các giải pháp thực hiện KCNST thái nói riêng, từ đó có cơ sở để hoàn thiện cơ chế, chính sách về KCN, KKT nói chung.

Hân Nguyễn (lược ghi)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực