Bài 2: Những địa danh nổi tiếng chè Việt

Để ngành sản xuất chè phát triển ​bền vững
Thứ sáu, 11/06/2021 16:58
(ĐCSVN) - Với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển cây chè. Nhiều địa phương trong cả nước đã nổi tiếng với những vùng chè bạt ngàn xanh. Từ các loại chè truyền thống cho đến chè mới xây dựng thương hiệu, từ trà mạn đến trà shan tuyết... đều hấp dẫn người yêu thích thưởng trà.

Bài 1: Thực trạng ngành sản xuất chè Việt

Thái Nguyên "đệ nhất danh trà"

Sản phẩm chè Thái Nguyên (Ảnh: PV) 

Với diện tích hơn 20 nghìn ha, Thái Nguyên là một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về diện tích canh tác, số lượng, chất lượng sản phẩm từ cây chè. Tại hầu hết các vùng chè của tỉnh, từ nhiều năm nay,  người dân đã tạo dựng cho mình thương hiệu mạnh "chè Thái" thông qua chất lượng và độ an toàn thực phẩm cao: Tân Cương, Đồng Hỷ, La Bằng… và từng bước chinh phục người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Đơn cử như, tại vùng chè Tân Cương, sản phẩm chè búp sao thô của một số hộ gia đình luôn được tư thương săn đón với mức giá đắt gấp nhiều lần so các nơi khác. Câu lạc bộ chè hữu cơ Tân Cương (xóm Nam Thái, xã Tân Cương, TP Thái Nguyên) là đơn vị đầu tiên của cả nước được Tổ chức Hữu cơ quốc tế IFOAM và Tổ chức ICEA (I-ta-li-a) cấp Giấy chứng nhận sản phẩm chè sạch theo tiêu chuẩn châu Âu.

Tại vùng chè La Bằng, cuối những năm 90 thế kỷ trước, địa phương đã mạnh dạn trồng thử nghiệm nhiều giống chè nhập nội có  ưu điểm vượt trội như: chè Long Vân, Keo Am Tích, Phúc Văn Tiên, Kim Tuyên, Bát Tiên, IR777... Sản phẩm "chè cành" (chè giống mới trồng bằng cành thay vì trồng bằng hạt như trước đây) được người tiêu dùng ưa chuộng ngay từ khi bắt đầu có mặt trên thị trường do hương vị thơm ngon của nó. Chè La Bằng đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa từ 2008.

Yên Bái độc đáo chè shan tuyết

Chè shan tuyết được xem là một đặc sản của tỉnh Yên Bái, không chỉ được biết đến ở Việt Nam, mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, chè shan tuyết Suối Giàng thuộc huyện Văn Chấn, nằm ở độ cao từ 1.500 đến 1.800 m so với mực nước biển, khí hậu ôn hòa với hàng chục nghìn cây chè cổ thụ hơn 100 tuổi, có cây đến 300 năm tuổi và là một trong những cây chè lâu năm nhất của thế giới còn sót lại.

Theo tư liệu từ sổ lưu niệm của Khu du lịch Suối Giàng, vào những năm 60 của thế kỷ 20, Viện sĩ K.M.Giem-mu-khat-de thuộc Viện Sinh hóa A.Ba Cu (Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô) khi đến Suối Giàng đã phải thốt lên: "Tôi đã đi qua 120 nước có cây chè trên thế giới nhưng chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng. Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của chè trên thế giới".

Tỉnh cũng đã triển khai Đề án phát triển chè shan vùng cao ở huyện Văn Chấn, theo hướng hữu cơ, tự nhiên. Từ chỗ trông chờ hoàn toàn vào tự nhiên, nay đồng bào vùng cao biết trồng chè shan tập trung, giâm cành để mở rộng vùng chè, nâng cao năng suất, sản lượng. Vì vậy, huyện Văn Chấn đã đề nghị Nhà nước tiếp tục có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho đồng bào vùng cao phát triển các diện tích chè shan tuyết một cách bền vững.

Toàn tỉnh Yên Bái hiện có 3.630 ha chè (đứng thứ 6/18 tỉnh trong cả nước về diện tích chè), phân bố ở 8/9 huyện, thành phố; năng suất bình quân đạt 4,5 tấn/ha, đạt sản lượng hơn 12 nghìn tấn búp tươi/năm. Trong số đó, có hơn 3.000 ha chè shan tuyết, cho sản lượng 75.000 tấn búp tươi mỗi năm, phần lớn được dành để xuất khẩu.

Lào Cai đặc biệt phát triển cây chè Ô Long

 Những búp chè non, tươi. (Ảnh: HNV)

Ðể mở rộng diện tích, nâng cao sản lượng và chất lượng chè, tỉnh Lào Cai đã có đề án về quy hoạch, phát triển cây chè đến năm 2015. Theo đó, tỉnh đầu tư 216 tỷ đồng để hỗ trợ nông dân trồng mới 1.000 ha; tổ chức thâm canh, ứng dụng khoa học - kỹ thuật sản xuất chè sạch theo chương trình Viet GAP, đầu tư thêm bốn dây chuyền chế biến chè công nghệ cao để tạo ra sản phẩm chè Ô Long chất lượng tốt, giá bán cao.

Mục tiêu nhằm nâng giá trị thu nhập của người trồng chè từ 20 triệu đồng/ha lên 40 triệu đồng/ha; thu nhập của người dân từ bán nguyên liệu đạt 140 tỷ đồng; doanh thu sau chế biến đạt giá trị khoảng 300 tỷ đồng/năm; tạo ra sản phẩm chè chất lượng cao, có thương hiệu đủ sức cạnh tranh thị trường trong nước và xuất khẩu.

Khẳng định thương hiệu chè Tuyên Quang

Tỉnh Tuyên Quang hiện có 7.912 ha chè tập trung ở các huyện Sơn Dương, Yên Sơn và Hàm Yên. Trong đó, có 6.957 ha chè kinh doanh cho thu hái sản phẩm, năng suất chè búp tươi năm 2010 đạt 77,1 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi đạt 51.307 tấn.

Chè được xác định là cây trồng mũi nhọn của tỉnh, giúp các hộ dân xóa nghèo bền vững của địa phương và đang được triển khai theo hướng trồng chè sản xuất, chế biến chè đúng kỹ thuật, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.

Thu hái chè shan tuyết cổ thụ tại Hà Giang. (Ảnh: PV) 

Thêm nét độc đáo vùng chè shan tuyết Hà Giang

Là tỉnh có diện tích chè đứng thứ 3 cả nước, với diện tích trên 20.000 ha, chè shan tuyết là cây chủ lực trong phát triển kinh tế nông nghiệp của Hà Giang. Bên cạnh đó, các vùng nguyên liệu chè trên địa bàn tỉnh đều gắn với địa thế núi rừng trùng điệp, cùng nhiều điểm đến thu hút du khách nên du lịch vùng nguyên liệu chè Shan tuyết ở đây cũng được coi là một điểm nhấn nên khai thác và phát huy hết hiệu quả.

Chè shan tuyết cổ thụ Hà Giang phân bố ở các địa phương bao quanh dãy núi Tây Côn Lĩnh với độ cao gần 2.500 m; các vùng chè đều mọc tự nhiên và được trồng từ xa xưa, nay phát triển thành cổ thụ, nhiều cây chè có bán kính bằng 2 vòng tay người ôm. Đặc biệt, các vùng chè nguyên liệu lớn đều sinh trưởng trong điều kiện mây phủ quanh năm và có địa thế đẹp, phong cảnh hữu tình; là điểm nhấn thu hút không ít du khách muốn khám phá và trải nghiệm về văn hóa miền núi nói chung và văn hóa chè nói riêng.

Tại thôn Đán Khao, xã Thượng Sơn (Vị Xuyên) - vùng nguyên liệu chè được mệnh danh là “trà mây” thường xuyên có khách du lịch tìm đến để thưởng ngoạn các cây chè cổ và trải nghiệm quy trình sản xuất chè thủ công của bà con dân tộc bản địa. Những câu chuyện về nguồn gốc cây chè, chuyện người trồng, chăm sóc và hưởng lợi từ một loại cây kinh tế “tắm” trong mây trời; khiến cho du khách ưa thích khám phá luôn hứng thú tìm đến đây.

Khám phá những cây chè cổ thụ ở Sơn La

Rừng đặc dụng Tà Xùa có tổng diện tích hơn 17.650 ha trải dài trên địa bàn các xã Mường Thải, Suối Tọ (Phù Yên), xã Háng Đồng, Tà Xùa (Bắc Yên). Nằm ở độ cao trên 2.000 m so với mực nước biển, với độ ẩm cao, không khí lạnh và mây mà bao phủ, rừng đặc dụng Tà Xùa mang đậm vẻ hoang sơ với hệ động, thực vật phong phú và nhiều nguồn gen quý hiếm.

Rừng chè shan tuyết cổ thụ với diện tích 140.000 ha đang được đồng bào dân tộc Mông bảo vệ. Họ coi đây là “kho báu cổ” giúp mình thoát cảnh nghèo đói, vươn lên làm giàu. Trong số đó, tại bản Bẹ, Tà Xùa, có khoảng 178ha chè shan tuyết tham gia liên kết với doanh nghiệp tạo thành chuỗi sản xuất khép kín. Những búp chè tươi mới thu hái sẽ được đưa vào chuyền chế biến chè đồng bộ, áp dụng quy trình kỹ thuật hiện đại kết hợp với kinh nghiệm thủ công lâu năm của người dân bản địa tạo ra những thành phẩm đạt chất lượng cao. Nhờ đó, chè shan tuyết từ không có thương hiệu nay trở thành sản phẩm OCOP 4 sao cấp quốc gia.

Phú Thọ - một trong những “cái nôi” ngành chè Việt

Ðược coi là "cái nôi" của ngành chè Việt Nam, những năm qua, tỉnh Phú Thọ triển khai nhiều giải pháp phát triển cây chè theo hướng bền vững, chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm. Phú Thọ là vùng đất Trung du với nhiều đồi lớn phù hợp để cây chè phát triển. Ðây là một trong những địa phương có diện tích và sản lượng chè lớn nhất cả nước gồm: năng suất chè đạt 118 tạ/ha; sản lượng đạt hơn 185 nghìn tấn/năm; tỷ lệ diện tích các giống chè mới đạt 75,3%, trong đó, cơ cấu giống phục vụ chế biến chè xanh khoảng 30%. Hiện, Phú Thọ vươn lên đứng thứ tư về diện tích với hơn 16.000 ha chè và thứ ba về sản lượng chè của toàn quốc. Tại đây, đã hình thành nhiều làng nghề, hợp tác xã (HTX), doanh nghiệp sản xuất, chế biến chè đen, chè xanh bảo đảm chất lượng được thị trường chấp nhận.

Ðược cấp nhãn hiệu tập thể từ giữa năm 2016, trải qua bao thăng trầm, đến nay, sản phẩm chè xanh Chùa Tà của làng nghề chè Chùa Tà (xã Tiên Phú, huyện Phù Ninh) được nhiều người tiêu dùng biết đến.

Tính đến nay, Phú Thọ có hơn 3.300 ha chè được sản xuất theo quy trình an toàn, vệ sinh thực phẩm; 100% cơ sở chế biến chè búp tươi có vùng nguyên liệu hoặc ký kết hợp đồng xây dựng vùng nguyên liệu, đủ cho chế biến chè xanh.

Bên cạnh vùng nguyên liệu chế biến chè đen xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Ấn Ðộ, Trung Quốc, Ðức, Anh, tại Phú Thọ bước đầu hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ chế biến chè xanh (trồng bằng các giống LDP1, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên...) ở các huyện: Tân Sơn, Thanh Sơn, Ðoan Hùng, Thanh Ba, Phù Ninh, Hạ Hòa.

Đảo chè Thanh Chương, Nghệ An. (Ảnh: PV) 

Thực hiện Nghị quyết 05/2019 của HÐND tỉnh về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn, đến nay, địa phương đã đầu tư hàng chục tỷ đồng xây dựng vùng sản xuất chè an toàn, xây dựng mô hình HTX, làng nghề chế biến chè gắn với thương hiệu chè xanh Phú Thọ, mỗi năm cung ứng ra thị trường 10 đến 12 tấn chè xanh thành phẩm chất lượng cao.

Hiện nay, ngoài việc quy hoạch các vùng chè an toàn, tỉnh đã xây dựng các mô hình sản xuất chè theo Dự án "Nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp" (QSEAP) tập trung chủ yếu ở các huyện trọng điểm. Ðây là cơ sở cho việc thu hút đầu tư sản xuất chè hàng hóa chất lượng, giá trị cao. Trong đó, chú trọng xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu chè an toàn theo hướng hữu cơ, hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, hóa chất trừ sâu; áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), từ khâu sản xuất đến chế biến thành phẩm cuối cùng.

Phát huy hiệu quả ngành chè xứ Nghệ

Cây chè đã được xác định là một trong 10 cây chủ lực, mang lại giá trị kinh tế, là một trong những mặt hàng xuất khẩu đem lại ngoại tệ cho tỉnh Nghệ An. Sản phẩm chè Nghệ An đang dần khẳng định được thương hiệu và có vị trí vững chắc trong ngành chè cả nước cũng như chinh phục được một số thị trường trên thế giới như các nước Trung Đông, EU, ASEAN, Mỹ, Nga…

Được biết, thực hiện Quyết định số 6290/QĐ-UBND ngày 24/12/2013 về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển vùng chè công nghiệp tỉnh Nghệ An giai đoạn 2013 - 2020 mục tiêu quy hoạch đến năm 2015, tính đến năm 2020, tổng diện tích chè của tỉnh đã đạt 12.000ha, diện tích chè kinh doanh 12.000ha, năng suất 130 tạ/ha, sản lượng búp tươi 156.000 tấn, tương đương 31.200 tấn búp khô, tập trung chủ yếu tại 6 huyện Thanh Chương 5.770ha, Anh Sơn 3.200ha, Con Cuông 1.500ha, Kỳ Sơn 1.000ha, Quỳ Hợp 230ha, Tương Dương 300ha.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An vẫn phát triển các giống chè công nghiệp chính là giống LDP1, LDP2, PH1, shan tuyết.

Về diện tích chè đặc sản, chè chất lượng cao  tỉnh Nghệ An có gần 500ha chè shan tuyết, trồng độ cao trên 1.200m - 1.500m so với mực nước biển, nơi mây mù phủ quanh năm của vùng Huồi Tụ - Mường Lống, huyện Kỳ Sơn. Ngoài ra, còn có đảo chè Thanh An ở huyện Thanh Chương, vừa là vùng sản xuất chè vừa là vùng du lịch hấp dẫn...

 Đồi chè Lâm Đồng (Ảnh: PV)

Đánh thức vùng chè Lâm Đồng

Lâm Đồng là một trong những tỉnh có diện tích trồng chè lớn nhất và lâu đời nhất Việt Nam. Được thiên nhiên ưu đãi, đất đai mầu mỡ, khí hậu thích hợp và đặc biệt có lợi thế là tỉnh nằm ở độ cao 800-1.000m, nên chất lượng chè của Lâm Đồng được khẳng định là ngon, hương thơm, vị ngọt.

Đã từ lâu cây chè được tỉnh Lâm Đồng xác định là cây xoá đói, giảm nghèo và làm giàu của nông dân đồng thời là một trong những cây công nghiệp chủ lực, có lợi thế trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay, tổng diện tích chè trên địa bàn toàn tỉnh có 25.929 ha... Trong đó, diện tích chè đang cho kinh doanh 23.791 ha, hằng năm cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước đạt 183.571 tấn. Tính ra cây chè tỉnh Lâm Đồng đã chiếm tỷ lệ 25% về diện tích và 27% về sản lượng chè của cả nước. Chè Lâm Đồng đã thành danh từ rất lâu với những thương hiệu nổi tiếng như: Tâm Châu, Lễ Ký, Quốc Thái… Lâm Đồng cũng đã góp những sản phẩm có giá trị cao, được nhiều người sành điệu về trà chấp nhận như: trà Ô Long, trà xanh, trà đen…

Tại Lâm Đồng, cây chè được trồng tập trung chủ yếu ở Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh. Do cây chè đã được trồng từ những năm 20 của thế kỷ trước nên nhiều diện tích chè nơi đây nay đã già cỗi, năng suất thấp. Trong những năm qua, nhất là từ năm 2002 đến nay trong các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển cây chè, tỉnh đã tập trung mở rộng diện tích vừa đẩy mạnh “cuộc cách mạng giống”, cải tạo vườn chè đạt năng suất, chất lượng cao và từng bước xây dựng vùng nguyên liệu chè an toàn, chè sạch. Đến nay, diện tích chè giống mới trong toàn tỉnh chiếm tỷ lệ 32%, với 6.340 ha chè cành năng suất cao và 2.075 ha chè cành Ô Long chất lượng cao của Đài Loan (Trung Quốc). Và theo Đề án phát triển vùng nguyên liệu chè đến năm 2020, tỉnh đặt mục tiêu nâng tổng diện tích chè lên 28.000 ha, trong đó các giống chè năng suất, chất lượng cao chiếm 55%, đồng thời triển khai nhiều dự án cải tạo vườn chè.

Lê Anh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực