Kiên Giang: Sản xuất tôm nước lợ theo chuỗi liên kết

Thứ năm, 17/03/2022 16:01
(ĐCSVN) - Nhằm đạt các mục tiêu về nuôi tôm nước lợ trong năm 2022, Kiên Giang sẽ đẩy mạnh phát triển hình thức sản xuất theo chuỗi liên kết từ sản phẩm vật tư đầu vào đến nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Cùng với đó, thực hiện tốt công tác dự báo tình hình và kết nối tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn.
 Ảnh minh họa (Nguồn: B.T)

Theo Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang, năm 2021, nuôi tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể, diện tích thả nuôi tôm nước lợ đạt 137.415 ha, đạt 101,04% kế hoạch, tăng 2,37% so với cùng kỳ; sản lượng đạt 104.694 tấn, đạt 106,83% kế hoạch, tăng 13,19% so với cùng kỳ. Trong đó, tôm công nghiệp – bán công nghiệp với diện tích 3.856 ha, sản lượng 36.378 tấn. Tôm-lúa với diện tích thả nuôi 104.320 ha, sản lượng 54.961 tấn; tôm quảng canh cải tiến diện tích đạt 29.329 ha, sản lượng 13.355 tấn. Toàn tỉnh có 10 doanh nghiệp nuôi tôm công nghiệp với tổng diện tích thả nuôi 593 ha, sản lượng thu hoạch 9.952 tấn.

Nhìn chung, trong năm 2021, tình hình nuôi tôm nước lợ của tỉnh cơ bản ổn định, tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi được kiểm soát, mức thiệt hại thấp hơn so với cùng kỳ. Phần lớn diện tích thả nuôi tôm đều đạt năng suất theo kế hoạch đề ra.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang cho biết, trong năm 2021, nuôi tôm nước lợ của tỉnh cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Trong đó, có thể kể đến việc chuỗi cung ứng sản xuất bị gián đoạn, giá cước vận chuyển và giá cả vật tư đầu vào tăng cao, giá tôm nguyên liệu có thời điểm giảm mạnh đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất.

Đi cùng với đó, công tác quản lý chất lượng, giá cả vật tư đầu vào còn nhiều hạn chế; giống tôm nước lợ sản xuất tại chỗ cung cấp phục vụ người nuôi chưa đáp ứng yêu cầu. Đồng thời, chưa hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất nuôi tôm nước lợ; công tác dự báo tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chưa chặt chẽ. Ngoài ra, việc áp dụng, chứng nhận các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, ASC,... còn chậm; công tác cấp giấy xác nhận đối tượng thủy sản nuôi chủ lực còn nhiều vướng mắc, chậm tiến độ so với kế hoạch.

Theo Sở NN&PTNT Kiên Giang, trong năm 2022, địa phương xây dựng kế hoạch phát triển nuôi tôm nước lợ với tổng diện tích 140.630 ha, sản lượng 108.500 tấn. Trong đó, diện tích nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp 4.200 ha, sản lượng 39.250 tấn; diện tích nuôi tôm-lúa 107.600 ha, sản lượng 58.000 tấn; diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến 28.830 ha, sản lượng 11.250 tấn.

Dự kiến năm 2022, tình hình dịch bệnh COVID-19 từng bước được kiểm soát, các hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản trở lại trạng thái bình thường mới, giá tôm nguyên liệu tăng, chuỗi cung ứng sản xuất thủy sản được phục hồi, thị trường tiêu thụ ổn định. Vì vậy, để khắc phục các khó khăn và phấn đấu đạt các chỉ tiêu đề ra, thời gian tới, Kiên Giang sẽ tập trung đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về cơ cấu mùa vụ, hướng dẫn quy trình sản xuất, thu hoạch, phòng chống và khắc phục dịch bệnh trên tôm nuôi. Bên cạnh đó, tập trung tháo gỡ, giải quyết những khó khăn vướng mắc trong nuôi tôm nước lợ; đẩy mạnh phát triển nuôi tôm công nghiệp, xử lý hiệu quả vấn đề môi trường và tình trạng thiếu nhân công lao động ở các doanh nghiệp khi hoạt động sản xuất bình trường trở lại.

Đặc biệt, địa phương sẽ đẩy mạnh phát triển hình thức sản xuất theo chuỗi liên kết từ sản phẩm vật tư đầu vào đến nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện tốt công tác dự báo tình hình sản xuất và kết nối tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn.

Cùng với các giải pháp trên, Kiên Giang sẽ tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong nuôi tôm công nghiệp; khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn VietGAP và các tiêu chuẩn quốc tế (GlobalGAP, BAP, ASC,...) theo yêu cầu của thị trường; đẩy nhanh tiến độ cấp giấy xác nhận đối tượng thủy sản nuôi chủ lực, truy xuất nguồn gốc sản phẩm nuôi, vùng nuôi.

Ngoài ra, thời gian tới, Kiên Giang tập trung đầu tư hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng phục vụ phát triển nuôi tôm nước lợ thích ứng với biến đổi khí hậu và an toàn dịch bệnh. Triển khai có hiệu quả các chính sách phát triển nuôi trồng thủy sản, nhất là chính sách phát triển thủy sản ứng dụng công nghệ cao./.

BT

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực