Xuất khẩu gạo của Việt Nam đột phá tại nhiều thị trường

Thứ sáu, 04/08/2023 19:57
(ĐCSVN) - Ước tính đến hết tháng 7/2023, Việt Nam xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo, trị giá 2,58 tỷ USD, tăng 18,7% về lượng và tăng 29,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân ước đạt 534 USD/tấn, tăng 9,2% so cùng kỳ năm 2022.
 Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại hội nghị

Ngày 4/8, tại Cần Thơ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thành phố Cần Thơ tổ chức Hội nghị triển khai công tác điều hành xuất khẩu gạo.

Tham dự Hội nghị có gần 200 đại biểu từ các bộ, ngành Trung ương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo và các cơ quan thông tấn báo chí.

Xuất khẩu gạo tăng trưởng ấn tượng

Báo cáo tại Hội nghị, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Trần Duy Đông cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 4,24 triệu tấn gạo với trị giá 2,26 tỷ USD, tăng 21,3% về lượng và tăng 32,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022 (số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan). Giá xuất khẩu bình quân đạt 533 USD/tấn, tăng 9% so với mức bình quân cùng kỳ năm 2022.

Theo ước tính của liên Bộ, đến hết tháng 7/2023, Việt Nam xuất khẩu 4,83 triệu tấn gạo, trị giá 2,58 tỷ USD, tăng 18,7% về lượng và tăng 29,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân ước đạt 534 USD/tấn, tăng 9,2% so cùng kỳ năm 2022.

Xuất khẩu gạo tiếp tục ghi nhận sự tăng trưởng tại thị trường truyền thống, thị trường có FTA thế hệ mới. Cụ thể, khu vực thị trường châu Á tiếp tục là khu vực xuất khẩu lớn nhất trong 6 tháng năm 2023, đạt gần 3,3 triệu tấn, chiếm 77,7% tổng lượng xuất khẩu, tăng 35,8% so với cùng kỳ năm 2022; tiếp đến là khu vực thị trường châu Âu, tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 2%) trong tổng lượng xuất khẩu của Việt Nam nhưng vẫn đạt 84,5 nghìn tấn, tăng trưởng hơn 28% so với cùng kỳ năm 2022. Khu vực thị trường châu Phi cũng ghi nhận sự tăng trưởng, xuất khẩu gạo đạt hơn 631 nghìn tấn, chiếm 15% tổng lượng gạo xuất khẩu, tăng gần 5% so với cùng kỳ năm 2022.

Đồng chí Trần Duy Đông - Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương 

Một số thị trường truyền thống tiếp tục tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2022.

Cụ thể, Philippines - thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam - chiếm gần 40,1% tổng lượng xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 2023 (tương đương xuất khẩu đạt gần 1,7 triệu tấn), tăng 7% so với cùng kỳ năm 2022. Đứng thứ 2 là Trung Quốc chiếm trên 16% trong tổng lượng xuất khẩu (tương đương 677,4 nghìn tấn), tăng 60,7% so với cùng kỳ năm 2022. Indonesia đứng thứ 3, chiếm 11,6% trong tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước (tương đương 492,8 nghìn tấn), tăng 15 lần về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022.

Cơ cấu chủng loại tiếp tục đi đúng định hướng Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo đến năm 2030 đã đặt ra với mục tiêu gia tăng giá trị cho hạt gạo. Chủng loại gạo trắng thường vẫn tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 55,5% tổng lượng xuất khẩu (tương đương khoảng 2,35 triệu tấn); tiếp đến chủng loại gạo thơm các loại chiếm khoảng 24,2% tổng lượng xuất khẩu (khoảng 1 triệu tấn); chủng loại gạo nếp đứng thứ 3, chiếm khoảng 8,5% tổng lượng xuất khẩu (lượng đạt khoảng 358,5 nghìn tấn); gạo tấm chiếm 7,6% tổng lượng xuất khẩu (lượng đạt khoảng 324,1 nghìn tấn).

Đặc biệt, Cục trưởng Trần Duy Đông cho biết, quý I/2023, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục biến đổi phức tạp, nhu cầu dự trữ lương thực của các nước tăng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam duy trì ở mức cao, dao động khoảng 450 USD/tấn, có thời điểm vượt qua giá gạo Thái Lan cùng chủng loại.

Bước sang quý II, nhu cầu nhập khẩu gạo của các thị trường tiếp tục tăng trong khi nguồn cung gạo từ các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới như Ấn Độ, Pakistan tiếp tục hạn chế; giá gạo Thái Lan tăng do đồng Baht tăng giá trở lại, giá gạo tiếp tục theo đà tăng của giá gạo thế giới.

Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 535 USD/tấn vào tháng 5/2023.

Thị trường tiếp tục tăng khi Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo non-basmati (phi basmati) là yếu tố dẫn đến giá gạo xuất khẩu các nước tăng mạnh, giá gạo 5% tấm của Việt Nam tăng 25 USD/tấn so với thời điểm lệnh cấm được ban hành.

Tính đến ngày 1/8/2023, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đạt trung bình 590 USD/tấn, mức giá cao nhất trong 11 năm qua, tăng khoảng 80 USD/tấn so với tháng trước, thấp hơn giá gạo cùng chủng loại của Thái Lan khoảng 35 USD/tấn. Đối với các dòng gạo thơm, giá xuất khẩu trung bình gạo Jasmine Việt Nam ghi nhận ở mức 690 USD/tấn, tăng khoảng 80 USD/tấn so với tháng trước.

Ngay sau thông báo cấm xuất khẩu gạo phi basmati của Ấn Độ, giá gạo Thái Lan có xu hướng tăng khoảng 5 USD/tấn. Giá gạo xuất khẩu Việt Nam vẫn giữ ổn định trong tuần đầu tiên kể từ thời điểm Ấn Độ ra thông báo lệnh cấm.

Do có độ trễ nên so với gạo Thái Lan, mức tăng giá của gạo Việt Nam diễn ra chậm, so với ngày 20/7/2023, hiện giá gạo Thái Lan tăng gần 60 USD/tấn trong khi giá gạo Việt Nam mới tăng có 25 USD/tấn. Sang đến ngày 1/8/2023, thị trường biến động gia tăng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã lên mức 590 USD/tấn đối với chủng loại 5% và tiến gần hơn với giá gạo của Thái Lan (625 USD/tấn); đối với đơn hàng giao tháng 8/2023 giá gạo vượt mức 610 USD/tấn với gạo 5%.

Tại thị trường trong nước, ngày 20/6/2023, Bộ Tài chính đã có công văn số 6378/BTC-QLG về việc công bố giá mua thóc định hướng vụ Hè Thu năm 2023. Theo đó, giá thành sản xuất bình quân thóc kế hoạch vụ Hè Thu 2023 tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long khoảng 4.708 đồng/kg, tăng 692 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2022.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, tính đến ngày 27/7/2023, giá thóc nội địa tăng khoảng từ 368 - 441 đồng/kg so với tháng trước; giá gạo các loại tăng từ 850 - 940 đồng/kg. So với cùng kỳ năm 2022, giá thóc tăng khoảng từ 1.300 - gần 1.900 đồng/kg; giá gạo các loại tăng từ 2.400 - gần 3.400 đồng/kg.

Giá thóc, gạo trong nước ở mức cao đặc biệt trong quý II do nhu cầu tăng mạnh tại nhiều thị trường (như: Indonesia công bố nhập khẩu 2 triệu tấn, Philippines gia tăng nhập khẩu để kiềm chế lạm phát, Trung Quốc nhu cầu mua tăng hơn so với cùng kỳ năm 2022,…) và nguồn cung gạo toàn cầu khu vực giảm do ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của biến đổi khí hậu tại một số quốc gia sản xuất.

 Hội nghị triển khai công tác điều hành xuất khẩu gạo tại Cần Thơ

Khác với giá xuất khẩu, ngay khi có thông tin về lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ, giá thóc gạo trong nước tăng nhanh theo từng ngày (trung bình mỗi ngày tăng từ 50 - 100 đồng/kg. Giá gạo nguyên liệu tại một số địa phương đã tăng từ 400 - 500 đồng/kg so với thời điểm ngày 20/7/2023 (Lệnh cấm có hiệu lực).

Giá một số chủng loại ghi nhận ngày 27/7/2023 như: giá gạo IR50404 đạt 10.750 đồng/kg, tăng 5% so với ngày 20 tháng 7 năm 2023 (tương đương tăng 500 đồng/kg); giá gạo OM5451 đạt 11.000 đồng/kg, tăng 5% (tương đương tăng 550 đồng/kg); giá gạo Đài Thơm 8 đạt 11.300 đồng/kg, tăng 6% (tương đương tăng 650 đồng/kg);v.v.

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đánh giá: Sau khi đạt mức xuất khẩu kỷ lục 7,1 triệu tấn gạo năm 2022, hoạt động xuất khẩu gạo trong nửa đầu năm 2023 của nước ta tiếp tục đạt được những kết quả tích cực cả về lượng và trị giá (tăng 18,7% về lượng và tăng gần 30% về trị giá so với cùng kỳ năm trước); đặc biệt đã ghi nhận mức tăng trưởng khá cao ở nhiều thị trường với các chủng loại gạo thơm và gạo chất lượng cao mà ta có thế mạnh.

Giá xuất khẩu một số chủng loại gạo hiện đã thiết lập mốc kỷ lục cao nhất trong 11 năm qua và giá thóc gạo hàng hóa của người dân luôn cao hơn so với giá định hướng do Bộ Tài chính công bố, bảo đảm lợi ích cho người nông dân.

Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có chỉ đạo tích cực, các địa phương đã nỗ lực, đặc biệt trong đó có khu vực Đồng bằng sông Cửu Long diện tích gieo trồng lúa vụ Thu Đông năm nay đạt khoảng 700.000 ha, tăng 50.000 ha so với năm trước; sản lượng dự kiến cả năm đạt trên 43 triệu tấn thóc.

"Trong điều kiện bình thường, với sản lượng dự kiến này, sau khi đã để tiêu dùng nội địa nhằm bảo đảm an ninh lương thực trong nước và chế biến, làm giống, thức ăn chăn nuôi, thì năm nay chúng ta có thể xuất khẩu được trên 7,5 - 8 triệu tấn gạo, cao hơn 400.000 - 900.000 tấn so với năm 2022 - một năm được xem là kỉ lục trong xuất khẩu gạo của Việt Nam", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết.

Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi và kết quả đạt được, Bộ trưởng thẳng thắn nhìn nhận, hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta thời gian qua vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần khắc phục, đồng thời dự báo sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh tình hình thương mại lương thực toàn cầu đang chịu tác động bởi nhiều yếu tố bất lợi.

Trước tình hình đó, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác điều hành xuất khẩu gạo, thúc đẩy tiêu thụ lúa gạo hàng hóa cho người dân với giá có lợi nhất, đồng thời góp phần bình ổn giá thóc, gạo trong nước và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị các đơn vị của Bộ Công Thương, các Bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các thương nhân xuất khẩu gạo tập trung triển khai tốt một số nội dung trọng tâm.

Theo đó, bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo để tận dụng thời cơ, vẫn phải bảo đảm được an ninh lương thực cho đất nước trong mọi tình huống, cần tiếp tục xác lập, củng cố cơ chế hợp tác chặt chẽ, hiệu quả giữa người sản xuất, vùng trồng với các thương nhân kinh doanh, xuất khẩu gạo; giữa các thương nhân với nhau để bảo đảm nguồn hàng ổn định, chất lượng và tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, tranh thị trường và ép cấp, ép giá.

"Thị trường sẽ tự điều tiết, tuân thủ theo quy luật cung cầu, giá cả. Trong bối cảnh đó, phải làm sao để lợi ích hài hòa giữa người sản xuất với người kinh doanh. Rõ ràng giữa các doanh nghiệp với nhau cũng phải có cơ chế hợp tác, liên kết hiệu quả, và ở đây vai trò của Hiệp hội Lương thực Việt Nam là rất quan trọng", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định./.

Tin, ảnh: K.D

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực