Những nghệ nhân “giữ lửa” văn hóa truyền thống dân tộc
Giữa cuộc sống hiện đại đang đổi thay từng ngày, trong những nếp nhà nhỏ ở miền núi Quảng Ninh vẫn có những con người lặng lẽ dành cả cuộc đời để gìn giữ tiếng hát, tiếng đàn và những nghi lễ của dân tộc mình. Không ồn ào, không đòi hỏi, họ trở thành những người “giữ lửa” cho kho tàng văn hóa truyền thống - thứ tài sản vô giá của cộng đồng. Điều khiến họ bền bỉ đến vậy chính là lòng yêu nghề, niềm tự hào và mong muốn truyền lại những giá trị ấy cho thế hệ mai sau.

Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú (ngoài cùng, bên trái) cùng tham gia trình diễn đàn tính, hát then.
Ngọn lửa then cháy trong lòng các nghệ nhân
Chúng tôi đến thôn Chiến Thắng vào một buổi chiều lạnh theo lời giới thiệu của lãnh đạo xã Điền Xá. Khi còn cách nhà Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang khoảng 200m, đã nghe tiếng hát then vọng ra trong trẻo và ấm áp, khiến người nghe như muốn dừng chân để lắng lại.
Ngôi nhà nhỏ đơn sơ đầy ắp âm thanh quen thuộc của đồng bào Tày. Trong nhà, Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang (79 tuổi) đang kiên nhẫn hướng dẫn mấy người trẻ cách ngân từng câu then cổ. Bà sửa từng nốt, từng nhịp, giọng nhẹ nhàng, nhưng đầy quyết tâm.

Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang dạy đàn tính và hát then cho người dân cùng thôn.
Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang rót chén trà nóng mời khách, rồi chậm rãi kể về hành trình gắn bó với then. Bà sinh ra trong một gia đình có 4 đời gắn bó với then ở Lạng Sơn. “Từ nhỏ tôi đã nghe ông bà, cha mẹ làm then cầu an. Lâu dần, tôi thuộc và yêu lúc nào không hay” - Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang chia sẻ. Năm 20 tuổi, Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang theo chồng về Tiên Yên sinh sống và vẫn tiếp tục thực hành các nghi lễ then, được bà con tin tưởng mời đi “lảu then” vào mỗi dịp cần cầu phúc, cầu an, cầu mùa.
Với bà Hang, then là lời khấn gửi đến tổ tiên, là tiếng cầu mong mùa màng tốt tươi, gia đình bình an. Còn hát then là cách con người gửi gắm tâm tình, ca ngợi quê hương, dạy con cháu sống nhân hậu, biết kính trên nhường dưới. Ngày trước, những câu then còn là cách để trai gái gửi gắm tình cảm, tìm hiểu nhau trong những đêm hội.
Nỗi trăn trở lớn nhất của Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang là tiếng Tày và hát then đang dần mai một khi người trẻ ít sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp. “Tôi sợ một ngày rồi chẳng còn ai hiểu hết những bài then cổ” - bà nói, giọng trầm hẳn xuống. Chính vì vậy, Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang miệt mài ngồi chép lại các bài then bằng trí nhớ, rồi mở lớp dạy miễn phí vào buổi tối. Lớp học đơn sơ lúc thì tại nhà văn hóa thôn, lúc thì tại chính gia đình của bà, nhưng tối nào cũng có người học.
Đến nay, Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang đã truyền dạy cho hàng trăm người. Nhiều học trò của bà đã tham gia biểu diễn trong các sự kiện văn hóa của địa phương, của tỉnh, thậm chí thành lập CLB hát then, đàn tính để tiếp tục lan tỏa niềm đam mê.
Chị Nông Thị Mai (xã Điền Xá) - học trò của Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang, chia sẻ: “Tôi yêu then từ nhỏ, nhưng phải nhờ bà Hang dạy mới hiểu hết cái hay của từng câu hát. Bà Hang kiên nhẫn lắm, từng chữ, từng hơi thở bà đều uốn nắn kỹ lưỡng, nhờ đó tôi có thể đứng trước khán giả biểu diễn, rồi mở lớp dạy cho các cháu trong thôn”.
Bao nhiêu năm trôi qua, ngọn lửa then trong Nghệ nhân Ưu tú Nông Thị Hang vẫn chưa bao giờ tắt. “Còn ai muốn học thì tôi vẫn dạy” - bà Hang cười, đôi mắt ánh lên niềm vui giản dị nhưng đầy ấm áp.
Rời xã Điền Xá, chúng tôi tiếp tục đến Bình Liêu - vùng núi rừng phía Đông Bắc của tỉnh. Thôn Chang Nà (xã Bình Liêu) là nơi sinh sống của Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú, người được xem là một trong số rất ít nghệ nhân vẫn giữ được kỹ thuật chế tác đàn tính truyền thống.

Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú tỉ mỉ chế tác đàn tính.
Trong khoảng sân rộng trước nhà, với những chiếc đàn tính vẫn còn mùi sơn mới, Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú (86 tuổi) ngồi tỉ mỉ gọt giũa cần đàn. Đôi bàn tay ông vẫn cứng cáp, nhưng khéo léo như chưa từng bị thời gian bào mòn. Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú kể, từ bé ông đã say mê tiếng then, tiếng đàn tính trong các lễ hội của xã. “Thấy mấy anh chị vừa đàn vừa hát, tôi thích lắm. Thế là tự học, rồi tự làm đàn để có cái mà chơi” - ông Phú nói.
Những năm đầu, Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú làm đàn nhiều, nhưng âm chưa vang, hình dáng chưa đẹp. Cứ làm xong lại sửa, sửa rồi lại làm mới. “Có khi cả nửa tháng tôi làm đi làm lại chỉ một cây đàn” - Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú nhớ lại. Kiên trì thử nghiệm, Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú cuối cùng cũng đã làm được cây đàn tính đúng chuẩn.
Đàn tính của người Tày nhìn đơn giản, nhưng lại rất khó chế tác. Từ khâu chọn gỗ, đến chọn quả bầu, phần quan trọng nhất của đàn, đều phải thật kỹ. Quả bầu làm đàn phải già, tròn đẹp, không nám, không méo. Khi hái về phải ngâm nước gần chục ngày để bỏ ruột, rồi rửa sạch, phơi khô, sau đó cắt ngang tạo mặt phẳng dán gỗ. Chỉ một sai sót nhỏ cũng làm cây đàn mất đi độ vang. Tất cả công đoạn ấy Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú đều làm bằng tay: Từ cưa, bào, đục, đến các bước sơn nâu đồng lên bầu đàn để tạo màu đặc trưng của đàn tính Bình Liêu.
Dù tuổi cao, nhưng với lòng yêu hát then và đàn tính, nên hằng ngày Nghệ nhân Ưu tú Lương Thiêm Phú vẫn tỉ mẩn làm từng cây đàn tính, mỗi một sản phẩm được hoàn thành đó chính là niềm vui và hạnh phúc của ông. Người trong vùng, ngoài tỉnh vẫn tìm đến ông để đặt đàn, vì họ biết chỉ đàn của ông mới giữ được âm sắc đặc trưng của người Tày nơi đây.
Tiếng đàn tính đã gắn bó với đời sống tinh thần của người Tày Bình Liêu suốt bao thế hệ. Từ lễ hội, cưới hỏi, đến sinh hoạt cộng đồng, nơi nào có đàn tính, nơi đó có tiếng hát then ngân lên tha thiết. Thế nhưng hiện nay chỉ còn 2 nghệ nhân có thể làm đàn theo lối truyền thống. Điều ấy khiến việc bảo tồn không chỉ dừng lại ở gìn giữ hát then, mà còn phải gìn giữ cả nghề làm đàn tính, phần linh hồn của âm nhạc dân tộc.
Chúng tôi rời Chang Nà khi tiếng đàn tính vẫn vang lên nhẹ nhàng sau lưng như lời gửi gắm của những người nghệ nhân già dành cho thế hệ trẻ: “Giữ tiếng đàn là giữ lấy cội nguồn”.
“Báu vật sống” của hát nhà tơ - hát, múa cửa đình
Điểm cuối trong hành trình của chúng tôi là xã Đầm Hà - nơi được coi là cái nôi của nghệ thuật hát nhà tơ - hát, múa cửa đình. Ở đây có một người được xem là "kho báu sống" của loại hình nghệ thuật độc đáo này: Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự, năm nay đã 104 tuổi.
Trên đường vào nhà Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự ở thôn Trại Giữa, chúng tôi được chị Đặng Minh Hải, Phó Bí thư Đoàn xã Đầm Hà chia sẻ nhiều câu chuyện. Chị nói: “Cụ Tự thuộc gần 40 bài với 9 giọng nhà tơ. Cụ dạy cho nhiều thế hệ trẻ, ai mê hát nhà tơ ở Quảng Ninh hầu như đều đã từng học cụ ít nhất một lần”.

Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự (xã Đầm Hà) dạy trẻ em trong thôn hát nhà tơ.
Khi gặp, Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự tuy giọng đã yếu, nhưng ánh mắt vẫn sáng và giọng hát vẫn giữ được sự dẻo dai ít ai ngờ. Người nghệ nhân già kể rằng từ nhỏ đã thấm sâu tiếng hát cửa đình. Mới 16 tuổi, cụ đã đi biểu diễn ở hội đình làng, rồi được nhiều nơi trong tỉnh mời về biểu diễn.
Năm 2019, cụ Tự vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân - phần thưởng xứng đáng cho cả đời cống hiến.
Khi được hỏi về kỹ thuật hát nhà tơ, Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự chia sẻ, hát nhà tơ có nhiều giọng, giọng huỳnh, giọng giai, phú, xà lam, hãm, vọng, thét nhạc, thả, thập nhị tứ hiếu. Múa cửa đình thì có múa đèn, múa bông, dâng nhang, múa tế. Mỗi giọng, mỗi điệu có quy tắc riêng, không dễ thực hiện. “Người hát phải biết nhả chữ, hát thật rõ, thật tròn. Phách phải chắc và giòn, ăn khớp với lời. Không hiểu câu hát thì hát không bao giờ vào được hồn” - cụ Tự nói.
Những người từng học Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự đều thừa nhận: Cụ không chỉ truyền kỹ thuật mà còn truyền cái “thần” của nhà tơ, sự trang nghiêm, mềm mại và đầy cảm xúc.
Dù đã hơn trăm tuổi, Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự vẫn dành thời gian chỉ bảo những người trẻ. Mỗi khi cụ cất giọng, không gian như lắng lại, đưa người nghe trở về không khí hội đình xưa - nơi tiếng phách, tiếng đàn hòa cùng giọng hát mộc mạc mà sâu lắng.
Những năm gần đây, để bảo tồn di sản, Đoàn Thanh niên xã Đầm Hà đã thành lập CLB hát nhà tơ trong trường học với 60 học sinh. Lớp học do chính những người đã từng theo học Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự đứng lớp. Nhờ vậy, tiếng hát nhà tơ, vốn thường do người cao tuổi trình diễn, giờ đã vang lên trong trẻo trong tiếng hát của trẻ nhỏ. Đây là tín hiệu đáng mừng cho một loại hình diễn xướng đang đứng trước nguy cơ mai một.
Nghệ nhân Nhân dân Đặng Thị Tự vẫn thường nói, còn người học thì còn nhà tơ. Và chính sự có mặt của cụ là minh chứng sống động nhất cho tinh thần ấy - người đã gìn giữ và truyền lại linh hồn của hát nhà tơ - hát, múa cửa đình Đầm Hà suốt hơn trăm năm.

Lớp học hát then, đàn tính tại thôn Nà Làng (xã Bình Liêu).
Quảng Ninh hôm nay đang phát triển mạnh mẽ, nhưng giữa dòng chảy đó những người nghệ nhân như bà Hang, ông Phú, cụ Tự… vẫn âm thầm gìn giữ và truyền dạy văn hóa truyền thống. Hiện trên địa bàn tỉnh có 36 Nghệ nhân Ưu tú và 2 Nghệ nhân Nhân dân, mỗi người một nghề, một cách làm, nhưng đều chung một tấm lòng son với di sản của dân tộc.
Họ không nói những lời lớn lao. Công việc của họ chỉ là chép lại bài then, dạy trẻ cách cầm đàn, thêu trang phục truyền thống, chỉ người học cách nhả chữ trong câu hát nhà tơ... Nhưng chính sự lặng lẽ đó đã giúp giữ lại những giá trị tưởng chừng mong manh trước nhịp sống hiện đại.
Họ chính là những người giữ lửa và là người truyền lửa. Những ngọn lửa bền bỉ ấy sẽ tiếp tục cháy sáng, để bản sắc văn hóa của các dân tộc ở Quảng Ninh không chỉ được gìn giữ, mà còn được tiếp nối và lan tỏa đến mai sau.



