Triển khai toàn diện, mạnh mẽ công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới

Thứ tư, 29/06/2022 20:37
(ĐCSVN) - Hội nghị được tổ chức nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động giữa các cơ quan, tổ chức trực tiếp tham gia công tác NVNONN, nâng cao ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của công tác này; bảo đảm các cơ quan, tổ chức nắm vững chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp để tổ chức thực hiện hiệu quả công tác NVNONN trong tình hình mới...

Tổ chức thực hiện hiệu quả công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới

Chiều 29/6, tại Hà Nội, Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao phối hợp với Ban Dân vận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đồng chủ trì Hội nghị quán triệt, triển khai Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới và Nghị quyết số 169/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, Chỉ thị 45-CT/TW và Kết luận 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2021-2026.

Tham dự Hội nghị có các đồng chí: Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Thượng tướng Lương Tam Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an; Lê Hải Bình, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Phùng Khánh Tài, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Nguyễn Lam, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương; Nguyễn Hữu Độ, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Phạm Quang Hiệu, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài; cùng hơn 500 đại biểu thuộc các ban, bộ, ngành, cơ quan trung ương; đại diện các cơ quan, tổ chức trong nước; đại diện Bộ Ngoại giao (đại diện Ban cán sự đảng Bộ, Các cấp ủy trực thuộc Đảng ủy Bộ, các đơn vị Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài); đại diện một số hội doanh nhân, trí thức kiều bào.

Hội nghị cũng được kết nối trực tuyến tới gần 200 điểm cầu bao gồm 63 điểm với sự tham dự của đại diện Tỉnh ủy, Thành ủy; đại diện các Ban, Sở ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan báo chí các tỉnh, thành phố trong cả nước; đại diện các Hội thân nhân kiều bào và gần 100 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và đại diện hội đoàn, doanh nhân, trí thức kiều bào.

Hội nghị được tổ chức nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động giữa các cơ quan, tổ chức trực tiếp tham gia công tác người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN), nâng cao ý nghĩa, tầm quan trọng và vai trò của công tác này; bảo đảm các cơ quan, tổ chức nắm vững chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp để tổ chức thực hiện hiệu quả công tác NVNONN trong tình hình mới, tạo sự thông suốt, nhất quán trong triển khai thực hiện giữa trung ương - địa phương, các ngành, lĩnh vực có liên quan; khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó cộng đồng NVNONN được xác định là “bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”.

leftcenterrightdel
Hội nghị do Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao phối hợp với Ban Dân vận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đồng chủ trì.

4 nhóm nhiệm vụ lớn của Kết luận 12-KL/TW

Trình bày Báo cáo dẫn đề về một số kết quả, tồn tại, hạn chế trong công tác người Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua và một số điểm mới, đáng chú ý trong Kết luận 12-KL/TW và Nghị quyết 169/NQ-CP, đồng chí Phạm Quang Hiệu, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài nêu rõ: Về quan điểm chỉ đạo, tại Kết luận 12-KL/TW, Bộ Chính trị yêu cầu tiếp tục thực hiện tốt và hiệu quả hơn Nghị quyết 36-NQ/TW, Chỉ thị 45-CT/TW về công tác đối với NVNONN; đồng thời nhấn mạnh việc thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp trong tình hình mới phải thể hiện rõ hơn tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng NVNONN, tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện để đồng bào hướng về quê hương. “Đây là lần đầu tiên chủ trương chăm lo cho cộng đồng NVNONN được chính thức nhấn mạnh bằng văn bản, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với bà con ta ở nước ngoài với vai trò là “bộ phận không tách rời” của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đồng thời phản ánh tinh thần mới trong đường lối Đại hội XIII của Đảng đối với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” – đồng chí Phạm Quang Hiệu nêu rõ.

Về 6 nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Kết luận 12-KL/TW, Thứ trưởng Phạm Quang Hiệu nhấn mạnh 4 nhóm nhiệm vụ lớn với những điểm mới. Cụ thể, công tác đại đoàn kết tiếp tục nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm trong thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào Việt Nam ở nước ngoài. Nghị quyết 36-NQ/TW, Chỉ thị 45-CT/TW chỉ rõ: Công tác NVNONN nói chung và công tác đại đoàn kết đối với NVNONN ngày càng được các ban, bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội quan tâm và chú trọng triển khai. Tuy nhiên, có nơi, có lúc, công tác này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Đến Kết luận 12-KL/TW, việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm được đề cập chính thức trong văn bản chỉ đạo của Bộ Chính trị. Cùng với đó, việc vận động hướng tới nhóm đối tượng kiều bào trẻ, lực lượng nòng cốt, những người có uy tín, ảnh hưởng trong cộng đồng và những kiều bào còn định kiến. Về chủ trương, đối với những kiều bào còn định kiến, Kết luận 12-KL/TW không còn sử dụng cụm từ “mặc cảm”, đồng thời cụm từ “đồng bào Việt Nam ở nước ngoài” được sử dụng nhiều hơn.

Công tác hỗ trợ cộng đồng, bao gồm hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống ở sở tại và hỗ trợ bà con giữ gìn tiếng Việt, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có 3 nội dung đáng chú ý. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cho biết, việc triển khai biện pháp tổng thể chăm lo, hỗ trợ đồng bào ta, nhất là ở những địa bàn khó khăn, có địa vị pháp lý vững chắc, ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế và hòa nhập thuận lợi vào xã hội sở tại. Điều này thể hiện rõ hơn tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Cùng với yêu cầu tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh…, xử lý triệt để, đẩy lùi tình trạng người Việt Nam vi phạm pháp luật sở tại, đồng chí Phạm Quang Hiệu nhấn mạnh nội dung đổi mới, nâng cao hiệu quả, phương thức dạy và học tiếng Việt; tăng cường hợp tác với nước sở tại thúc đẩy đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy ở các 4 cơ sở giáo dục tại các địa bàn có đông người Việt sinh sống; nghiên cứu đầu tư, xây dựng trung tâm văn hóa của người Việt tại các địa bàn này; nghiên cứu lựa chọn Ngày tôn vinh tiếng Việt hàng năm.

Về công tác vận động cộng đồng, bao gồm phát huy nguồn lực của kiều bào và thông tin đối ngoại, Thứ trưởng Phạm Quang Hiệu thông tin, việc hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi, vận dụng và phát huy hiệu quả các sáng kiến, ý kiến đóng góp của trí thức, chuyên gia và doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài; giải quyết nhu cầu chính đáng của kiều bào ta liên quan đến quốc tịch phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật và tinh thần của Nghị quyết 36-NQ/TW. Thứ trưởng cho biết, về tư duy, cần coi kiều bào vừa là đối tượng vừa là chủ thể của công tác này; về nội dung, kịp thời thông tin về tình hình đất nước, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến bà con kiều bào, kịp thời phản bác những luận điệu sai trái, không đúng sự thật về tình hình đất nước; về phương thức, phát huy hiệu quả các phương tiện truyền thông đa dạng của cộng đồng.

Đối với cơ chế phối hợp và tổ chức bộ máy làm công tác người Việt Nam ở nước ngoài, hai nội dung đáng chú ý là: Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các lực lượng tham gia công tác người Việt Nam ở nước ngoài; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác người Việt Nam ở nước ngoài.

leftcenterrightdel
 Đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, phát biểu tại Hội nghị.

Hai đột phá của Nghị quyết 169/NQ-CP

Nhằm cụ thể hóa và triển khai Kết luận 12-KL/TW của Bộ Chính trị, ngày 31/12/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 169/NQ-CP với 4 điểm đáng chú ý.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Hiệu nhấn mạnh: Bên cạnh việc bám sát Nghị quyết 36-NQ/TW, Chỉ thị 45-CT/TW và Kết luận 12-KL/TW, Nghị quyết 169/NQ-CP đã bám sát, cụ thể hóa yêu cầu của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về việc “triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn” công tác NVNONN. Về nội dung, 9 nhiệm vụ và giải pháp đã đề cập mọi mặt của công tác NVNONN như công tác đại đoàn kết, vận động, hỗ trợ bà con kiều bào. Phương thức chú trọng hơn việc áp dụng những thành tựu về công nghệ vào quá trình triển khai như đổi mới và đa dạng hóa việc tập hợp ý kiến đóng góp của kiều bào, linh hoạt kết hợp giữa hình thức trực tiếp và trực tuyến; đa dạng hóa hình thức dạy và học tiếng Việt, chú trọng hình thức trực tuyến; đa dạng hóa phương thức chuyển tải thông tin, trong đó chú trọng việc duy trì và phát triển nội dung trên nền tảng số. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi, vận dụng và phát huy hiệu quả các sáng kiến, ý kiến đóng góp của các chuyên gia, đội ngũ trí thức, cộng đồng doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài.

Chủ thể tham gia công tác NVNONN, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cho biết, các nhiệm vụ, giải pháp đã huy động sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó phát huy vai trò vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của NVNONN trong triển khai công tác vận động, tập hợp cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa, dạy và học tiếng Việt, thông tin đối ngoại...

Các nhiệm vụ và giải pháp nhấn mạnh hơn việc hoàn thiện và tăng cường cơ chế phối hợp giữa các lực lượng tham gia công tác này. Nghị quyết 169/NQ-CP đã cụ thể hóa yêu cầu của Bộ Chính trị tại Kết luận 12-KL/TW về việc thể hiện rõ hơn tình cảm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc chăm lo cho đồng bào ta ở nước ngoài thông qua các giải pháp hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống ở sở tại. Nghị quyết 169/NQ-CP tập trung vào hai đột phá trong công tác NVNONN thời gian tới; đó là: đại đoàn kết dân tộc; phát huy nguồn lực kiều bào phục vụ phát triển đất nước.

Những giải pháp trong Nghị quyết 169/NQ-CP nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế được chỉ ra trong Kết luận 12-KL/TW như: Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của lực lượng thực hiện công tác ở trong và ngoài nước; tăng cường các biện pháp phát huy nguồn lực của kiều bào như trao quyền tự chủ hơn nữa cho các tổ chức, doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia thu hút, sử dụng nguồn chất xám kiều bào; phát huy vai trò của kiều bào trong việc nâng cao vị thế, hình ảnh quốc gia, thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước…

leftcenterrightdel
 Đồng chí Lê Hải Bình, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương phát biểu tại Hội nghị.

Đổi mới nội dung, phương thức và tư duy trong công tác thông tin đối ngoại tới cộng đồng NVNONN

Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Lê Hải Bình, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, cho biết: Trong thời gian qua, nhất là sau 10 năm thực hiện Kết luận số 16-KL/TW ngày 14/2/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 - 2020, công tác thông tin đối ngoại nói chung và công tác thông tin đối ngoại đối với cộng đồng NVNONN nói riêng, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Công tác thông tin đối ngoại đã chú trọng nâng cao nhận thức và cung cấp thông tin, khuyến khích NVNONN nêu cao tinh thần tự trọng, tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Công tác thông tin đối ngoại cũng đã tập trung triển khai thông tin, tuyên truyền thống nhất và đồng bộ, hiệu quả trong cả hệ thống chính trị ở trong và ngoài nước, tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa thông tin đối nội và đối ngoại, từ đó, tăng cường đồng thuận xã hội và gắn kết giữa cộng đồng NVNONN với đất nước.

Nội dung thông tin đối ngoại đối với cộng đồng NVNONN toàn diện và đổi mới theo hướng chủ động, đa dạng, thuyết phục hơn, cơ bản đảm bảo được mục tiêu mà Kết luận 16-KL/TW đề ra. Trong đó, nội dung thông tin về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các sự kiện lớn, quan trọng và thành tựu phát triển của đất nước được cung cấp đậm nét, bài bản, chủ động, có định hướng rõ ràng với kế hoạch và chương trình cụ thể, thể hiện phương châm “đi trước mở đường”, góp phần quan trọng giúp đồng bào ta ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng về chính sách, quan điểm của ta, nhất là chính sách đối ngoại và quan điểm về các vấn đề quốc tế và khu vực. Thông tin đối ngoại cũng trở thành cầu nối để truyền tải những khó khăn, tâm tư của bà con kiều bào tới với nhân dân trong nước, góp phần gắn kết chặt chẽ khối đại đoàn kết toàn dân.

Đa dạng hóa phương thức, phương tiện thông tin, tranh thủ tối đa các lực lượng thông tin, truyền thông, thành tựu khoa học, công nghệ trong hoạt động thông tin đối ngoại; tăng cường thông tin bằng tiếng nước ngoài. Phương thức thông tin tới cộng đồng NVNONN được thực hiện theo hướng phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn...

Bên cạnh đó, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Lê Hải Bình cũng chỉ rõ một số hạn chế của công tác thông tin đối ngoại đối với NVNONN như: Sự phối hợp thông tin trong chỉ đạo và triển khai thực hiện giữa bên trong và ngoài nước, nhất là khi phát sinh các vấn đề phức tạp, nhạy cảm còn một số bất cập, thiếu nhịp nhàng; công tác thông tin đối ngoại có thời điểm chưa gắn kết chặt chẽ với thông tin đối nội, có nơi, có lúc còn bị động, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng khai thác, tuyên truyền, xuyên tạc làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của Việt Nam. Nội dung thông tin, tuyên truyền chưa tiếp cận được với nhiều nhóm đối tượng, nhất là các thế hệ trẻ, thiếu liên hệ thường xuyên với trong nước, ít thông tin; chủ yếu cung cấp thông tin một chiều - cái ta có, cái ta cần tuyên truyền - mà ít chú ý đến thông tin mà đồng bào quan tâm. Chưa phát huy được vai trò của cộng đồng người Việt Nam đang học tập, sinh sống, lao động ở nước ngoài. Phương thức thông tin còn đơn điệu, chủ yếu là các phương thức, hình thức truyền thống, chưa tranh thủ được lợi thế của các phương tiện truyền thông mới, nhất là mạng xã hội.

Trong bối cảnh đó, đồng chí Lê Hải Bình nhấn mạnh công tác thông tin đối ngoại trong thời gian tới cần đảm bảo tính chính xác, phù hợp, hấp dẫn trong nội dung, phong phú, đa dạng về hình thức, xác định phương châm mới là “Chủ động, kịp thời, thống nhất, sáng tạo, hiệu quả”. Trong đó, khẳng định vai trò “đầu tàu” của Ban Chỉ đạo Công tác thông tin đối ngoại, của các cơ quan, đơn vị đối ngoại chủ lực; tăng cường tính mục tiêu, hướng đích của công tác thông tin đối ngoại; thúc đẩy và nâng cao hơn nữa vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, xác định cộng đồng NVNONN vừa là đối tượng, vừa là chủ thể đặc biệt của công tác thông tin đối ngoại. Đặc biệt, chú trọng, quan tâm nhiều hơn đến thế hệ trẻ NVNONN với nhiều hoạt động thường xuyên, hướng về cội nguồn để nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc và tình cảm gắn bó yêu mến quê hương, đất nước; mở rộng vận động những cá nhân có uy tín, ảnh hưởng lớn trong cộng đồng.

Theo đồng chí Lê Hải Bình, nội dung cần đa dạng, toàn diện, sâu sắc và thuyết phục cao. Trong đó, đưa đầy đủ, chính xác thông tin về tình hình đất nước, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thành tựu phát triển đất nước trên các lĩnh vực. Tăng cường hơn nữa việc thông tin, truyền truyền về tầm quan trọng, vai trò, vị trí, năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chú trọng giới thiệu về chủ trương, lập trường quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quốc tế và khu vực, chia sẻ tiếng nói về những vấn đề mang tính thời đại, nhận thức chung của cộng đồng quốc tế; đóng góp thiết thực và trách nhiệm của Việt Nam vào các nỗ lực của cộng đồng quốc tế ứng phó với các thách thức chung, duy trì và củng cố hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới; đồng thời, thể hiện tiếng nói mạnh mẽ hơn và lập trường đối ngoại tích cực đối với những vấn đề thuộc lợi ích cốt lõi, mang tầm chiến lược của Việt Nam tới bà con kiều bào.

Ngoài ra, cũng cần đổi mới hơn để nhanh hơn, đa dạng hơn và hiệu quả hơn về phương thức, trong đó chú trọng chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sử dụng các phương tiện truyền thông mới; tăng cường hơn nữa vai trò của hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, phát huy hơn nữa vai trò của các hội, đoàn, các phương tiện truyền thông của cộng đồng NVNONN.

Thêm vào đó, công tác thông tin đối ngoại đối với cộng đồng NVNONN cần tiếp tục thúc đẩy sự phối hợp triển khai toàn diện, kết hợp hài hòa, nhịp nhàng giữa các kênh (đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân), các lĩnh vực (chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, văn hóa...) một cách toàn diện; sự phối hợp giữa các cơ quan trong nước với hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, hệ thống các hội, đoàn của NVNONN, bảo đảm sự thông suốt giữa thông tin ở trong và ngoài nước.

Tại Hội nghị, tham luận của một số Ban, Bộ, ngành, địa phương cũng tập trung nêu rõ một số vấn đề trọng tâm được nêu trong Kết luận 12-KL/TW, Nghị quyết 169/NQ-CP và kế hoạch triển khai thời gian tới như: Biện pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả, phương thức tổ chức dạy và học tiếng Việt đối với người Việt Nam ở nước ngoài; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý, phản hồi, vận dụng và phát huy hiệu quả các sáng kiến, ý kiến đóng góp của kiều bào; biện pháp phát huy nguồn lực kiều bào phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương…

Hiện có khoảng 5,3 triệu người Việt sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% là ở các nước phát triển. Vị thế và uy tín của cộng đồng người Việt Nam trong xã hội sở tại ngày càng được nâng cao; có vai trò và ảnh hưởng ở mức độ khác nhau tới quan hệ hữu nghị giữa các nước với Việt Nam và là đại diện văn hoá Việt Nam ở các nước, giới thiệu văn hoá, truyền thống, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế. Kiều bào ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng đóng góp cho sự phát triển của đất nước, cả về nguồn lực kinh tế, tri thức và nguồn lực “mềm”, đóng góp cho xây dựng thương hiệu quốc gia và là cầu nối quan hệ giữa Việt Nam và các nước.

Về tri thức, có khoảng 500.000 chuyên gia, trí thức NVNONN, chiếm tỷ lệ 10% trong cộng đồng NVNONN, đang làm việc tại các cơ sở khoa học, các viện nghiên cứu, các trường đại học và các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài.

Về kinh tế, nhiều doanh nhân kiều bào đã thành danh và góp mặt trong danh sách các tỷ phú thế giới.

Về chính trị, một số người gốc Việt đã tham gia chính trường sở tại ở các cấp độ khác nhau.

Về đầu tư trực tiếp, đến hết năm 2021, có 376 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 1,7 tỷ USD. Ngoài ra, có hàng nghìn doanh nghiệp có vốn góp của kiều bào.

Kiều hối tăng trưởng trung bình 6% hàng năm. Năm 2021, lượng kiều hối của Việt Nam ở mức 18,1 tỷ USD (theo Ngân hàng Thế giới), tương đương gần 5% tổng thu nhập quốc gia. Lượng kiều hối lũy kế từ năm 1993 đến nay đạt khoảng 175 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước nhận kiều hối lớn nhất thế giới.

Năm 2022, các hoạt động thường niên dành cho NVNONN được duy trì và tiếp tục tổ chức như: Xuân Quê hương; Đoàn kiều bào về dự Quốc giỗ vua Hùng; Đoàn kiều bào thăm Trường Sa, Trại hè Việt Nam… nhằm thực hiện có hiệu quả Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết 169/NQ-CP của Chính phủ.


Tin, ảnh: Mạnh Hùng - Khánh Linh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực