Tiếp tục tập trung hoàn thành các nhiệm vụ năm 2025 của Nghị quyết 57-NQ/TW
(ĐCSVN) – Chỉ đạo tại cuộc họp Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng chí Nguyễn Duy Ngọc nhấn mạnh: “Với 472 nhiệm vụ còn lại của năm 2025, các bộ, ngành tự đánh giá chủ quan, quyết liệt thực hiện và phải hoàn thành, nếu không sẽ cản trở cả hệ thống”.

Chiều ngày 5/12, Ban Chỉ đạo Trung ương Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tổ chức họp rà soát tổng thể những vấn đề, nội dung, nhiệm vụ triển khai trong năm 2025, qua đó nhận diện các tồn tại, hạn chế, những vướng mắc, khó khăn, đốc thúc triển khai; chuẩn bị cho việc tổng kết công tác năm của Ban Chỉ đạo vào cuối tháng 12.
Các đồng chí: Nguyễn Duy Ngọc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó trưởng Ban Chỉ đạo; Phạm Gia Túc, Ủy viên Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Chỉ đạo; Nguyễn Chí Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Ban Chỉ đạo chủ trì Hội nghị.
Dự Hội nghị có các đồng chí trong Ban Chỉ đạo Trung ương, Tổ giúp việc; Tổ Liên ngành; Lãnh đạo các Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Công Thương, Tài chính, Tư pháp, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng...
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo, tính đến hết ngày 04/12/2025, Ban Chỉ đạo đã giao các bộ, ngành, địa phương, đơn vị tổng số 1.287 nhiệm vụ, trong đó đã hoàn thành 601 (47%), đang thực hiện đúng hạn 404 (31,5 %), quá hạn 104 (8%) nhiệm vụ. Bên cạnh đó, có 178 (13,5%) nhiệm vụ thường xuyên. Với 404 nhiệm vụ đang thực hiện trong hạn, thì 368 nhiệm vụ phải hoàn thành trước ngày 31/12/2025. Như vậy, cùng với số nhiệm vụ quá hạn, có 472 nhiệm vụ còn lại của năm 2025.

Về thể chế, sau 1 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, đã ban hành 17 luật, 59 nghị định, 62 thông tư, 702 văn bản của địa phương.
Về Chuyển đổi số, tổng số thủ tục hành chính (TTHC) cả nước là 5.527, các địa phương đã cung cấp dịch vụ công trực tuyến với 2.014/2177 TTHC, chiếm 92,5%. 34/34 đija phương đã công bố danh mục TTHC thực hiện không phụ thuộc địa giới. Tỷ lệ công bố thực hiện các TTHC trên toàn quốc đạt 90%.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả nhưng còn rất nhiều khó khăn, vướng mắc thể hiện ở tiến độ số hóa tài liệu còn chậm (đạt 48%); Chưa hoàn thành việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu chuyên ngành; Hạ tầng kỹ thuật ở nhiều nơi, đặc biệt là cấp cơ sở còn thiếu, chưa đồng bộ, cũ, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu vận hành các phần mềm dùng chung mới. Nhân lực chuyên trách về CNTT tại các cơ quan còn rất hạn chế; Khó đảm bảo tiến độ giải ngân toàn bộ vốn trong năm 2025 do các thủ tục pháp lý theo quy định hiện hành; phát sinh thêm 308 thôn lõm sóng; 129 thôn chưa có điện…
Về tiến độ xây dựng, đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia, chuyên ngành theo Kế hoạch số 02, hiện có 04 CSDL đã có nền tảng và CSDL được hình thành tập trung; 05 CSDL đang triển khai, chưa có nền tảng và CSDL tập trung, dữ liệu đã có một phần nhưng mới chỉ được số hóa, chưa được tạo lập theo đúng quy trình nghiệp vụ; 03 CSDL chưa triển khai.
Về thực trạng xây dựng 105 CSDL được giao trong năm 2025 theo Nghị quyết 71/NQ-CP, có 31 CSDL đã có nền tảng và CSDL được hình thành tập trung; 36 CSDL đang triển khai, bước đầu xây dựng nền tảng, phần mềm dùng chung; 38 CSDL đang/chưa triển khai, có nguy cơ cao không hoàn thành.

Nguyên nhân được cho là do chưa có sự quyết liệt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo ở một số bộ, ngành; sự phân công lãnh đạo không khoa học, chưa hợp lý…; chưa có cơ chế điều phối thống nhất; thiếu sự phối hợp kỹ thuật và chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị trực thuộc Bộ và giữa các đơn vị bộ, ngành với nhau. Một số bộ, ngành chưa xác định được CSDL nào cần ưu tiên làm trước, phục vụ kịp thời cho giải quyết thủ tục hành chính và công tác quản lý, điều hành; không nhận diện đúng dữ liệu nào là “dữ liệu gốc”, “dữ liệu chủ” dẫn đến có những trường thông tin được thu thập trùng lặp nhiều lần, gây lãng phí nguồn lực số hoá.
Bên cạnh đó, có tới 18 CSDL thuộc 07 bộ đã đăng ký với Bộ Khoa học và Công nghệ (hơn 300 tỷ đồng) nhưng chưa được duyệt, do hồ sơ đăng ký chưa đảm bảo. Việc đăng ký vốn của các bộ, ngành chưa có tính tổng thể, thống nhất. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính thực hiện mang tính chiếu lệ, nhiều nhiệm vụ không tuân thủ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ làm chậm thời gian cấp vốn, dẫn đến chậm thời hạn.
Về tài chính, Bộ Khoa học Công nghệ đã rà soát, đề xuất Bộ Tài chính báo cáo cấp có thẩm quyền phân bổ số kinh phí là 16.716,074 tỷ đồng cho 26 bộ, cơ quan trung ương (14.797,456 tỷ đồng) và 20 địa phương (1.918,618 tỷ đồng). Thủ tướng Chính phủ đã thống nhất phân bổ 13.659,992 tỷ đồng, chưa phân bổ là 3.056,082 tỷ đồng.

Về Khoa học và Công nghệ và đổi mới sáng tạo: Mô hình hợp tác "3 Nhà" được triển khai ở 4 trường đại học trọng điểm. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Tài chính đã chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan để tháo gỡ vướng mắc về thể chế, cơ chế tài chính, định giá tài sản trí tuệ và chia sẻ dữ liệu. Tuy nhiên việc triển khai mô hình vẫn thực hiện theo cách làm cũ, chưa có sự chuyển biến rõ nét theo mô hình mới. Một số nhiệm vụ cụ thể được giao tại các Thông báo kết luận vẫn còn chậm tiến độ hoặc chưa cập nhật đầy đủ thông tin, minh chứng trên Hệ thống giám sát.
Đối với việc thúc đẩy Tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghệ chiến lược, Bộ Khoa học và Công nghệ, đang dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) trong đó có quy đinh về chính sách nhằm thúc đẩy nội địa hóa trong các sản phẩm công nghệ chiến lược. Bộ Công Thương hiện đang nghiên cứu, đề xuất ban hành Luật Công nghiệp trọng điểm. Tuy nhiên, nội dung triển khai nhìn chung mới dừng lại ở bước lập kế hoạch và gửi văn bản đôn đốc, chưa có sản phẩm cụ thể theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo.
Về giải pháp phát triển công nghệ chiến lược: mặc dù Danh mục công nghệ chiến lược đã ban hành nhưng đến nay chưa có Chương trình triển khai, tiêu chuẩn đánh giá và hướng dẫn cụ thể, dẫn đến lúng túng trong thực hiện. Chưa xác định được cơ chế tài chính đặc thù cho "Mô hình 3 Nhà" đối với từng sản phẩm cụ thể (tỷ lệ góp vốn, chia sẻ rủi ro, phân chia lợi nhuận).
Về việc triển khai hệ thống thông tin giải quyết TTHC của các bộ, ngành: Cần nêu rõ sự cần thiết, quan điểm, giải pháp triển khai Hệ thống điều phối giải quyết TTHC là một cấu phần của Cổng Dịch vụ công quốc gia và hoàn thành trước ngày 20/12/2025.

Tại cuộc họp, đại diện các bộ, ngành thẳng thắn nêu lên những việc đã làm được, những việc còn khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ, đề nghị Ban Chỉ đạo chỉ đạo phối hợp thực hiện; xem xét, cân chuyển một số nhiệm vụ cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành.
Kết luận Cuộc họp, đồng chí Nguyễn Duy Ngọc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó trưởng Ban Chỉ đạo nhấn mạnh, năm 2025 là năm đầu tiên triển khai thực hiện nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tuy nhiên, chúng ta chứng kiến thế giới có sự phát triển lĩnh vực này rất nhanh. Do đó, nếu không nỗ lực, chúng ta sẽ có nguy cơ hoàn thành nhưng vẫn không tiến kịp với sự phát triển đó.
Về các nội dung mà các bộ, ngành kiến nghị, đồng chí Nguyễn Duy Ngọc nêu rõ: Về thể chế, Bộ Khoa học công nghệ là cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm đôn đốc toàn bộ hệ thống, các bộ ngành thực hiện để hoàn thành việc xây dựng thể chế trong năm 2025.
Về Khung Kiến trúc thủ tục hành chính: Ban Chỉ đạo thống nhất giao Bộ Công an chủ trì thực hiện. Bộ Công an nhanh chóng triển khai để đến 1/1/2026 phải đưa và sử dụng từng phần và đến ngày 1/3/2026 có thể sử dụng toàn trình. Việc thực hiện Khung kiến trúc TTHC phải đảm bảo thực hiện theo đúng phân cấp phân quyền, gắn liền với phân công nhiệm vụ, thủ tục, chuyển đổi số, bố trí ngân sách. Bên cạnh đó, các Bộ, địa phương sớm hoàn thành đề án Thành phố thông minh để triển khai thực hiện.
Với 452 nhiệm vụ phải hoàn thành trong năm 2025, đồng chí Nguyễn Duy Ngọc đề nghị các bộ, ngành tự đánh giá chủ quan, không thể chỉ hoàn thành trên hệ thống bởi nếu không hoàn thành sẽ cản trở cả hệ thống, từ đó phân ra 4 nhóm và 10 phần việc thực hiện hiệu quả trong năm 2026./.



