
1. Quán triệt làm sáng rõ giá trị lý luận cốt lõi về chủ nghĩa xã hội
Với phương pháp tiếp cận khoa học, trình bày lô-gíc, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, hệ thống hóa, đưa ra những quan điểm, tư tưởng, nhận thức mới mang tầm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam trên các phương diện của đời sống xã hội, với những nội dung cốt lõi, đó là:
Về chủ nghĩa xã hội, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ” là mục tiêu căn bản của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam hướng tới. Trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, mặt hạn chế, những mâu thuẫn nội tại, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng của thế giới nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản là không thể che đậy, mâu thuẫn vốn có, cũng như các cuộc khủng hoảng “không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa”. Với tư duy lý luận sắc bén, khúc chiết và thuyết phục, cuốn sách đã trả lời từng câu hỏi, đi đến kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.
Trên cơ sở kế thừa các giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng lập luận chặt chẽ, lô-gíc, phân tích sâu sắc, chắt lọc được đúc kết từ thực tiễn phong phú, với tinh thần kiên định, vững vàng, bản lĩnh của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư đã làm sáng rõ những vấn đề căn bản, quan trọng về chủ nghĩa tư bản, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể chế chính trị, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ đây là sự nghiệp lâu dài, phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát ở Việt Nam là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và làm chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Tác phẩm đã có sự phát triển trên phương diện nhận thức lý luận về việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột, bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Việc kế thừa những thành tựu phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển.
Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung đặc biệt quan trọng được đề cập trong cuốn sách. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hình thái tổ chức kinh tế này vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc cơ bản và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
Trên cơ sở luận cứ khoa học và tổng kết thực tiễn, tác phẩm làm rõ bản chất, thể chế, cấu trúc, cơ chế vận hành, mục tiêu, đặc trưng căn bản, thuộc tính riêng có là định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đột phá cơ bản và sáng tạo lý luận quan trọng của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn trong nước và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Qua đó khẳng định một cách rõ ràng, nhất quán, vững chắc về nhận thức và thực tiễn vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Về văn hóa - xã hội, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình”. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Nội dung cuốn sách đã làm rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”. Đồng thời, xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.
Về đối ngoại, đồng chí Tổng Bí thư phân tích, đưa ra nhận thức, tư duy mới: “Đối ngoại ngày nay không chỉ là sự nối tiếp của chính sách đối nội, mà còn là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của các quốc gia, dân tộc”. Theo đó, cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; nâng cao năng lực hội nhập, nhất là cấp vùng và cấp địa phương, doanh nghiệp; tận dụng tối đa các cơ hội từ quá trình hội nhập mang lại, nhất là các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Xây dựng nền ngoại giao hiện đại, chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế theo trường phái “ngoại giao cây tre Việt Nam” để “thêm bạn bớt thù”, tạo thế “đan cài về lợi ích”; cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột đối đầu, tránh bị lệ thuộc, cô lập. Tăng cường ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển; mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hóa, đóng góp thiết thực vào quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về quốc phòng, an ninh, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Xây dựng thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Tổng Bí thư yêu cầu Đảng bộ Quân đội cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của quân đội ta là “Quân đội nhân dân, Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và được đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng; do vậy Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó máu thịt với nhân dân” , thực hiện tốt 6 nhiệm vụ về: Quán triệt, nhận thức sâu sắc về bản chất, trách nhiệm của quân đội; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, gương mẫu, tiêu biểu; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tăng cường mối quan hệ máu thịt của quân đội với nhân dân; sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; phối hợp các bộ, ngành, địa phương để tăng cường tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân; thực hiện đồng bộ các giải pháp để xây dựng “Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”.
Nội dung tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” thể hiện tầm tư tưởng và luận giải những vấn đề lý luận rất rộng lớn trên tất cả các lĩnh vực, được chắt lọc qua thực tiễn của người lãnh đạo cao nhất của Đảng. Đây là vấn đề cốt lõi khơi dậy khát vọng hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Đảng ta đã tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh chính trị 2011 khái quát: “Hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành và từng bước hoàn thiện”.
2. Ý nghĩa đối với công tác quốc phòng, quân sự địa phương
Tác phẩm có sức lay động, lan tỏa, truyền cảm hứng, tác động to lớn đến tư tưởng, niềm tin, hành động của mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Sự lan tỏa tinh thần, tư tưởng trong tác phẩm giúp cán bộ, đảng viên, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội củng cố sự đoàn kết, thống nhất cao về tư tưởng và hành động, quyết tâm xây dựng quân đội với tinh thần “7 dám”, đó là: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thách thức và dám hành động vì lợi ích chung”.
Thời gian tới, tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Bất ổn địa chính trị, xung đột quân sự leo thang tại một số quốc gia, khu vực, tiềm ẩn nhiều rủi ro, đe dọa an ninh toàn cầu và tác động trực tiếp đến nước ta, nhất là trên hướng biên giới và biển, đảo. Ở trong nước, đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen. Các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ với mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tác động của mặt trái cơ chế thị trường; trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Tình hình trên đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn, đòi hỏi trong bất cứ hoàn cảnh nào Quân đội nhân dân cũng phải thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ nhiệm vụ của Quân đội nhân dân thời gian tới là: “Chủ động, ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến”.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ở khu vực Đông Nam bộ, nằm trên hướng phòng thủ chủ yếu của Quân khu 7, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, quốc phòng, an ninh. Diện tích tự nhiên 1.982,56km2, thềm lục địa rộng 100.000km2, bờ biển dài 305km (đất liền 95km, Côn Đảo 210km); dân số trên 1.176.000 người, có 38 dân tộc anh em, có 10 tôn giáo khác nhau. Tỉnh có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, riêng Côn Đảo cách Vũng Tàu 97 hải lý; toàn tỉnh có 15 khu công nghiệp, có 74 cảng các loại với nhiều cơ quan, đơn vị kinh tế; có 46 đơn vị LLVT của Bộ Quốc phòng, Quân khu 7 đóng trên địa bàn.
Từ vị trí chiến lược như trên có thể khẳng định công tác quân sự, quốc phòng địa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trong khu vực phòng thủ tỉnh, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ngày càng lớn mạnh, chuẩn bị các phương án sẵn sàng chiến đấu cao, không để bị động bất ngờ; phát huy sức mạnh tổng hợp trong khu vực phòng thủ bảo vệ cấp ủy, chính quyền, hệ thống chính trị và nhân dân mọi lúc, mọi nơi. Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; không có biểu hiện suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Quán triệt, nhận thức sâu sắc những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo trong tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong thời gian tới, công tác quốc phòng, quân sự địa phương cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản, trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Tham mưu kịp thời với Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 thực hiện các chiến lược quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà nước, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XIII về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; các chủ trương, chính sách, giải pháp có tính chiến lược trong xử lý các tình huống về quốc phòng, an ninh. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang tỉnh chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân. Nhận thức sâu sắc, vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc; xây dựng bộ đội thường trực chính quy, hiện đại; lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp; DBĐV hùng hậu, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, Quân đội, cấp ủy, chính quyền và nhân dân giao cho.
Hai là, tuyệt đối không chủ quan, lơ là, không để bị động, bất ngờ, giữ vững khu vực phòng thủ, mục tiêu đảm nhiệm trong mọi tình huống. Chủ động dự báo sớm, đánh giá đúng tình hình; nhận diện rõ các nguy cơ, mối đe dọa đến các tình huống về quốc phòng và an ninh. Thực hiện nghiêm công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ mục tiêu theo các phương án. Phối hợp huy động lực lượng, phương tiện tham gia xử lý hiệu quả, an toàn các tình huống trên không, trên biển và trên đất liền. Không ngừng đổi mới các mặt công tác để chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững địa bàn an toàn. Chủ động bám sát cơ sở, phối hợp các lực lượng bảo đảm an ninh trật tự, chăm lo cuộc sống bình yên, an toàn, hạnh phúc của nhân dân.
Ba là, tập trung chỉ đạo, thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Thực hiện hiệu quả việc điều chỉnh lực lượng góp phần xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh trong điều kiện mới. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh mẫu mực về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thường xuyên tự soi, tự sửa, tu dưỡng, rèn luyện, không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức đảng ở các cấp với phương châm “Trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo”; quyết tâm xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực tiêu biểu”.
Trải qua gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, bằng nghị lực, công sức và cả xương máu của mình, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh đã dũng cảm vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, lập nhiều chiến công vang dội xây đắp nên truyền thống: “Trung thành vô hạn, chủ động sáng tạo, đoàn kết kỷ luật, gắn bó nghĩa tình, thắng lợi vẻ vang” vinh dự được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Lan tỏa tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành tài liệu nghiên cứu, học tập lý luận chính trị có giá trị, giúp cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân tỉnh nhà hiểu sâu sắc hơn; từ đó kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy, chính quyền các cấp. Đồng thời cũng giúp cho cấp ủy, chỉ huy, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh tăng cường đoàn kết, thống nhất cao về tư tưởng và hành động phấn đấu xây dựng quân đội, đơn vị phát triển lớn mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Trần Chung