Năm 1940, Chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra vô cùng khốc liệt. Lợi dụng nước Pháp bị phát xít Đức tấn công và chiếm đóng, Nhật tăng cường gây sức ép để tìm cách tiến vào Đông Dương. Thực dân Pháp ở Đông Dương khi ấy tự nhận thấy không đủ sức chống lại Nhật, lại lo sợ phong trào cách mạng đang dâng cao mạnh mẽ trong nhân dân, do đó chúng tìm cách thỏa hiệp với Nhật để cùng vơ vét, bóc lột và đàn áp nhân dân ta. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tố cáo: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật”.
Do sự áp bức tàn bạo của Pháp và Nhật, phong trào cách mạng ở nước ta phát triển ngày càng mạnh mẽ. Đúng lúc đó, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh), sau 30 năm bôn ba hoạt động cách mạng ở hải ngoại, đã trở về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 10/5 đến 19/5/1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng). Hội nghị khẳng định tiếp tục đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu và đưa ra nhận định: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Hội nghị cũng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, để tổ chức và huy động tối đa lực lượng của Nhân dân, tích cực chuẩn bị những tiền đề cần thiết để tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Dưới ngọn cờ của Việt Minh, tại các vùng căn cứ địa cách mạng, công cuộc chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân được xúc tiến vô cùng gấp rút.
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã đi đến giai đoạn quyết định. Quân đội phe Đồng minh (nòng cốt là Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh) liên tiếp giành những thắng lợi quan trọng, đẩy phe phát xít (nòng cốt là Đức, Italia, Nhật) đến bên bờ vực thất bại hoàn toàn. Trước những thất bại liên tiếp trên chiến trường, phát xít Nhật ở Đông Dương ngày càng thêm lo ngại về một hành động đâm sau lưng từ phía thực dân Pháp. Chính vì vậy, ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đã tiến hành cuộc đảo chính hất cẳng Pháp.
Với sự nhạy bén và sáng suốt trong tư duy lãnh đạo, Đảng ta lập tức đề ra chủ trương phải chĩa mũi nhọn đấu tranh vào phát xít Nhật, xác định phát xít Nhật và chính quyền bù nhìn tay sai đã trở thành đối tượng trực tiếp của cách mang. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945 đã chỉ rõ: "Đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương".
Tình hình trở nên vô cùng cấp bách, tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang để thành lập Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị tiến tới thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.
Khí thế cách mạng ngày càng cuồn cuộn dâng cao, ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Ngày 13/8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã quyết định phải phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương. Tiếp đó, Ủy ban khởi nghĩa cũng đã ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Trưa ngày 15/8/1945, Thiên hoàng Hirohito của Nhật tuyên bố đầu hàng quân đội Đồng minh. Nhận được tin này, phát xít Nhật ở Đông Dương trở nên rệu rã, mất hết ý chí chiến đấu. Chính quyền tay sai của Nhật cũng tỏ ra hoang mang cực độ. Trong khi đó, quân đội Đồng minh tiến vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật chắc chắn không thể tới ngay được. Thời cơ cách mạng “ngàn năm có một” để nhân dân ta giành độc lập, tự do đã mở ra trước mắt.
Ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội được tổ chức tại Tân Trào (Tuyên Quang), với hơn 60 vị đại biểu ở khắp nơi, đại diện cho cả ba miền Bắc - Trung - Nam, các ngành, các giới, các đảng phái chính trị và cả một số kiều bào. Đại hội đã thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; tán thành “Lệnh Tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương (tức Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã đồng loạt đứng lên giành chính quyền.
Từ ngày 14/8 đến ngày 18/8, Tổng khởi nghĩa nổ ra giành thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam...
Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội.
Từ ngày 23/8 đến 25/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở hầu khắp các địa phương trên cả nước.
Riêng cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Côn Đảo diễn ra trong điều kiện đặc biệt hơn các địa phương trong đất liền. Nắm bắt những diễn biến mau lẹ của tình hình và phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn thể tù nhân, Hội đồng liên hiệp quốc dân Côn Đảo đã được thành lập với đa số thành viên là tù chính trị. Đảng ủy Côn Đảo đã tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng gọi là Đoàn phòng thủ Côn Lôn do đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Đảo ủy làm Đoàn trưởng. Cuối tháng 8/1945, quyền lực thực tế trên đảo đã thuộc về những người cộng sản, đánh dấu thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa ở nơi này.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trong cuộc mít tinh hừng hực khí thế chiến thắng của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự kiện này đánh dấu Cách mạng Tháng Tám đã thành công trọn vẹn.
 |
Mít tinh tổng khởi nghĩa tại Quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội (Ảnh tư liệu) |
Ngày nay nhìn lại, có thể khẳng định Cách mạng Tháng Tám thành công đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lịch sử vô cùng sâu sắc, cần phải nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn đất nước trong bối cảnh hiện nay, cụ thể là:
Thứ nhất, bài học về việc tận dụng thời cơ cách mạng. Thời cơ cách mạng, hiểu theo nghĩa chung nhất, là tình thế xuất hiện trong một thời điểm nhất định, có lợi nhất cho việc huy động lực lượng cách mạng tiến hành đấu tranh để giành thắng lợi. Nếu nhận định không đúng thời cơ, cách mạng ắt sẽ khó tránh khỏi những tổn thất to lớn. Trong thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, do vận dụng nhuần nhuyễn Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã nhiều lần nhận định chính xác thời cơ và tận dụng thời cơ một cách tài tình, đem lại những thắng lợi vĩ đại, khiến cả thế giới phải khâm phục. Cách mạng Tháng Tám 1945 chính là một ví dụ cụ thể cho điều đó. Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng có thể coi là một thời cơ cách mạng của Việt Nam. Tận dụng tốt thời cơ này sẽ giúp đất nước ta huy động tối đa nguồn lực đầu tư, học hỏi kinh nghiệm quản lý, thành tựu khoa học công nghệ từ các nước phát triển, tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, đưa Việt Nam sớm vươn mình sánh vai với các cường quốc năm châu như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Thứ hai, bài học về vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là bằng chứng lịch sử rõ ràng nhất khẳng định vai trò quan trọng của Đảng trong việc đề ra đường lối giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, khoa học, sáng tạo. Đảng đã chuẩn bị đầy đủ tất cả các mặt về tổ chức, chính trị, quân sự để chớp thời cơ cách mạng, tập hợp, đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc. Đảng cũng thể hiện sự linh hoạt, nhạy bén trong việc xác định phương pháp đấu tranh thích hợp trong từng giai đoạn, từng thời điểm, từng địa phương để tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trọn vẹn. Nói đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, không thể không nói đến vai trò lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vận dụng bài học từ lịch sử, trong bối cảnh đổi mới hiện nay, một lần nữa cần phải khẳng định vai trò then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng có thực sự trong sạch, thực sự vững mạnh, mỗi cán bộ đảng viên có thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thì Đảng mới xứng đáng là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là nhân tố quan trọng nhất trong mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, bài học về huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Cách mạng Tháng Tám 1945 cho thấy rằng, một dân tộc cho dù nhỏ bé, dù phải đối diện với kẻ thù hùng mạnh hơn gấp nhiều lần, song nếu biết phát huy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, dám chấp nhận hi sinh, gian khổ, thì vẫn có thể làm nên những điều kì diệu, có tầm vóc vĩ đại và đi vào lịch sử. Nắm vững ngọn cờ lãnh đạo, Đảng đã đánh giá đúng và biết tập hợp, tổ chức các lực lượng cách mạng trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở đó, Đảng đã xây dựng được mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù để giành thắng lợi. Ngày nay, bài học về huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn vẹn nguyên ý nghĩa thời sự. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội còn rất nhiều chông gai, thử thách, với sự chống phá quyết liệt từ các thế lực thù địch. Chính vì thế, việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải luôn được khẳng định là một trong những nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ tư, bài học về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, Đảng đã chuẩn bị chu đáo tất cả mọi mặt nhằm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng để hướng tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước. Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, bên cạnh lực lượng chính trị to lớn của Nhân dân, lực lượng vũ trang cách mạng chính là lực lượng đóng vai trò nòng cốt, đi đầu trong việc giành chính quyền tại các địa phương. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đất nước ta vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về biên giới, về chủ quyền, phải ứng phó, đối đầu với nhiều kẻ thù hùng mạnh. Chính vì vậy, việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là một đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn. Công tác xây dựng và phát huy vai trò lực lượng vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám 1945 chính là bài học quý, cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để vận dụng cho phù hợp.
Tóm lại, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là sự hội tụ của ý chí độc lập tự chủ, tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự kiện này cũng là cơ sở, là tiền đề để Nhân dân ta tiếp tục kiên cường đấu tranh hoàn thành các mục tiêu cách mạng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng sau này, để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhiều bài học kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự. Vì vậy, nghiên cứu, vận dụng những bài học ấy chính là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.
ThS. Trần Ngọc Sáng - Trường Chính trị tỉnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, Tập 7.
2. Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, H.2008.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2002, Tập 3
4. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Cách mạng tháng Tám 1945 - Toàn cảnh, Nxb. Từ điển Bách Khoa, H.2005.
5. Nguyễn Thanh Tâm, Khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2005.