Sức mạnh của báo chí trên chiến trường
|
Nhà báo Kỳ Phương (thứ 3 trái qua) và các nhà báo ở miền Nam |
Lúc này, các cơ quan báo chí thành lập tại chiến khu D và tại các tỉnh ủy, khu ủy: Báo Giải Phóng, Đài phát thanh Giải Phóng, Thông tấn xã Giải Phóng, Báo Quân Giải phóng, Tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng, Điện ảnh Quân Giải phóng, Chương trình phát thanh Quân Giải phóng miền Nam... mà đến nay tại Cục lưu trữ Quốc gia 2 (TP Hồ Chí Minh), sẽ thấy, có rất nhiều tờ báo, các nhà báo từ đó đến nay vẫn cống hiến hết mình. Điều đáng quý, là tất cả các cơ quan báo chí này đều được thành lập ngay trong những ngày đầu đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh tại chiến trường miền Nam.
Tờ báo ra đời từ rất sớm và có tiếng nói rộng là báo Giải Phóng. Báo Giải Phóng do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam sáng lập ngày 20/12/1964, báo in và phát hành trong chiến khu, đưa ra vùng giải phóng, nhằm đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động cho kháng chiến. Nhà báo Trần Phong - Kỳ Phương, nguyên Tổng Biên tập đầu tiên của tờ báo này. Nhà báo Đinh Phong, nguyên Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam (nguyên là phóng viên Báo Giải Phóng đầu năm 1967) khi kể với chúng tôi, cho biết: đầu năm 1964, một đoàn phóng viên Báo Cứu Quốc (cơ quan ngôn luận Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam) được điều từ miền Bắc vào Nam để xây dựng tờ báo này. Trung ương Cục miền Nam phân công trực tiếp chỉ đạo báo Giải Phóng là đồng chí Trần Trọng Tân, Ủy viên Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam (TW Cục).
Quá trình phát triển báo Giải Phóng đã có những hoạt động đầy sôi động ngay trong lòng cuộc chiến tranh, như: đầu năm 1967, địch mở cuộc càn đánh vào các căn cứ của Ban Tuyên huấn TW Cục, các phóng viên và nhân viên tòa soạn đã tích cực tham gia chiến đấu bảo vệ căn cứ; một số đồng chí đã hy sinh, một số bị thương nặng, nhưng địch không thể vào được tòa soạn. Do phải di chuyển, cất giấu thiết bị nhà in nên sau trận càn này, Báo Giải Phóng phải tạm đình bản một thời gian. Trước tết Mậu Thân 1968, các phóng viên báo Giải Phóng được tung đi các mũi chủ yếu và đi theo bộ phận tiền phương của TW Cục. Một số phóng viên và nhân viên trẻ đã được đưa vào Đội tuyên truyền vũ trang của TP Sài Gòn, trong đó, nhiều nhà báo đã hy sinh ngay tại cửa ngõ Sài Gòn như các nhà báo: Cảnh Hân, Quốc Hùng, Trần Huân Phương, Bằng Sơn… nêu những tấm gương sáng.
Bên cạnh các tờ báo ra đời ở vùng căn cứ R còn có các báo khác, như: Báo Nhân dân miền Nam, Tập san Tuyên huấn, Văn nghệ Giải phóng, Tiền phong, Phụ nữ Giải phóng, Văn nghệ Giải phóng quân, Tập san Báo chí, Lửa thiêng, Tập san Mở đường… các khu ủy, tỉnh ủy đều ra các tờ báo, bản tin phục vụ kịp thời quân dân địa phương như: Chiến thắng, Cứu nước, Cứu đạo ở Bến Tre, Ấp Bắc ở Mỹ Tho, Quyết thắng, Quyết tiến ở Long An, Tháp Mười anh dũng ở Kiến Tường, Bảy Núi ở An Giang... Dựa vào nội dung các bản tin chính thức của Thông tấn xã Giải phóng, bộ phận phụ trách soạn đúng và cho in, phát hành Bản tin tiếng Anh và Bản tin tiếng Pháp... đóng góp to lớn trong công tác tuyên truyền đối ngoại mà TW Cục miền Nam chỉ đạo. Đầu năm 1970, do đế quốc Mỹ và ngụy quyền đánh phá ác liệt, nhà in của Báo Giải Phóng được nước bạn đồng ý cho chuyển sang in tại vùng đất bạn Campuchia và khi in xong, thì chuyển ngược lại về nước để phát hành khắp các địa phương, các đơn vị chiến trường tại miền Nam.
Đài Phát thanh Giải Phóng là một đơn vị báo nói có vị trí quan trọng trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại. Đài đã chính thức được phát sóng ngày 01/2/1962, bằng nhiều thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp, Quảng Đông, Bắc Kinh, Triều Châu và Khmer. Đài trực tiếp được Ban tuyên huấn TW Cục miền Nam chỉ đạo. Trụ sở Đài những ngày đầu đặt ở của khẩu Tân Biên - Tây Ninh. Ngoài cơ sở chính tại chiến trường, Đài còn một bộ phận được xây dựng tại miền Bắc, đề phòng ẩn trắc khi cơ sở chính ở miền Nam bị địch đánh phá ác liệt, không phát lên sóng được.
Ngoài phát chương trình của Đài, Đài Phát thanh Giải Phóng đã hỗ trợ trực tiếp cho báo Giải Phóng và báo Quân Giải phóng trong những thời kỳ bị địch càn quét không phát hành được, bằng việc phát đi tin tức 2 tờ Báo này trên Đài Phát thanh đi ra nhiều nước bằng làn sóng của Đài.
Báo Quân Giải phóng trực thuộc Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam được thành lập ngày 01/01/1963, và kết thúc sau ngày đại thắng tháng 4/1975. Đại tá Nguyễn Viết Tá, nguyên Biên tập viên Báo Quân Giải phóng (nay nghĩ hưu ở TP Hồ Chí Minh), cho biết: Báo Quân Giải phóng là một trong những cơ quan báo chí chủ yếu của chiến trường. Người phụ trách đầu tiên là trung tá Lê Đình Lệ (Tư Trực), một nhà báo đầy xông xáo, năng nổ. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, nhiều phóng viên, cán bộ báo Quân Giải phóng, như: Mai Bá Thiện, Vũ Xiêm, Đỗ Tất thắng, Nguyễn Sung, Đỗ Kết… đã có mặt rất sớm tại các điểm nóng chiến trường, đưa những tin tức nóng bỏng nhất về chiến thắng trên toàn mặt trận ra cả nước và ra thế giới.
Sát cánh với Báo Quân Giải phóng, có Tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng, Điện ảnh Quân Giải phóng, Chương trình phát thanh Quân Giải phóng miền Nam, với những tên tuổi quen thuộc với khán thính giả cả nước như các nhà văn, nhà báo: Nguyễn Ngọc Tấn (Nhà văn Nguyễn Thi), Võ Trần Nhã, Thanh Giang, Triệu Bôn, Nguyễn Ngọc Oánh, nhạc sĩ Xuân Hồng, nhạc sĩ Trần Xuân Tiến… các đạo diễn và quay phim: Trương Thành Hỷ, Phan Thanh Dũng, Phùng Bất Diệt, Thanh Cao… đã góp phần đưa không nhỏ trong việc thông tin nhanh nhạy nhất về chiến trường miền Nam & những diễn biến của Chiến dịch mùa Xuân 1975.
Sức mạnh của báo chí trong đấu tranh giải phóng miền Nam
Với chiến trường miền Nam trong một thời gian dài, báo chí đã góp phần thông tin nhanh nhạy nhất, chính xác nhất, cổ vũ chiến thắng, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Bên cạnh nhiệm vụ thông tin trúng & đúng, nhanh, nhạy; những định hướng tư tưởng chính xác, với chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng, TW Cục miền Nam, báo chí đã tham gia mạnh mẽ vào việc cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng tham gia hết mình vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà vào mùa Xuân 1975.
|
Các nhà báo hành quân từ chiến trường B.2 về chuẩn bị tiếp quản tại TP. Sài Gòn. (Ảnh tư liệu) |
Dù trải dài trên nhiều mặt trận, khắp Trung, Nam Trung bộ, hay cả Nam bộ có sự cách biệt trên các chiến trường trong những tình huống vô cùng gian khổ, ác liệt, hy sinh…song sự phối kết hợp giữa các lực lượng báo chí đã tạo dư luận đồng tình trong nước, đưa quốc tế, sự phối, kết hợp cùng các hoạt động đấu tranh ngoại giao, quân sự… đã góp phần làm nên sức mạnh tổng hợp, đi đến thắng lợi hoàn toàn Xuân 1975. Suốt cả hai cuộc Kháng chiến, báo chí cách mạng tại chiến trường miền Nam luôn là vũ khí đấu tranh cách mạng hiệu quả rất cao của quân, dân miền Nam.
Những hình thức đấu tranh của báo chí cách mạng miền Nam, không chỉ tại chiến trường miền Nam mà tại các đô thị miền Nam, báo chí đã trở thành những vũ khí mang sức nặng, buội cả chính quyền Mỹ & ngụy quyền Sài Gòn đi vào thế bị động, thế yếu hoàn toàn trong cả Hội nghị Paris về hòa bình cho Việt Nam & Đông Dương.
Lúc này, báo chí tại các đô thị miền Nam luôn là vũ khí đấu tranh của Đảng bộ và quân, dân miền Nam rất sắc bén. Nhớ lại những ngày đấu tranh gần suốt 4 năm liền đầy quyết liệt tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1969-1973), cố đồng chí Dương Đình Thảo, phát ngôn viên chính thức của Đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam (nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy TPHCM sau giải phóng) khi còn sống cho chúng tôi biết: Lúc đó 2 đoàn của ta đấu tranh với đoàn Bộ ngoại giao Mỹ và đoàn Bộ ngoại giao ngụy quyền Sài Gòn rất quyết liệt hàng ngày, có khi quá nữa đêm phái đoàn Mỹ mới dừng cuộc tranh cãi trong bảo vệ quan điểm của từng bên ngay tại Hội nghị Paris, cho đến khi đi đến hồi kết tháng 01/1973.
Và một chủ trương rất táo bạo, hiệu quả cao của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, do Bí thư Khu ủy Trần Bạch Đằng chỉ đạo thực hiện ngay, sử dụng Bưu điện Sài Gòn chuyển báo công khai in ấn tại Sài Gòn của chế độ Sài Gòn lúc đó. Đó là các báo Thời Luận, Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Tia Sáng, Trời Nam , Lẽ Sống, Thần Dân, Thời đại, Chuông mai, Dân quyền, Dân ta, Dân Tộc, Buổi sáng, Dân nguyện, Liên minh, Dân chủ, Dân chủ mới, Đồng thanh, Thần dân, Miền Nam, Tân Văn... với những tác phẩm các nhà báo nổi tiếng lúc đó, như: Phạm Thế Tuyền, Trần Ngọc Sơn, Anh Tín, Thẩm Thệ Hà, Thanh Lộc... đã trực tiếp nói lên tiếng nói chính nghĩa của nhân dân miền Nam, đúng sự thật mà các đoàn của Mỹ - ngụy Sài Gòn không thể chối cãi.
Thực hiện chỉ đạo đó, đầu năm 1969 trở đi, đến ngày 4 bên ký kết Hiệp định Paris tháng 27/01/1973, lúc nào trên bàn đàm phán Hội nghị Paris, luôn có một nguồn thông tin chính thức hàng ngày rất có lợi trực tiếp cho 2 phái đoàn đàm phán của ta. Đó là những chuyến thư được Khu ủy Sài Gòn - Gia Định bố trí chuyển công khai bằng máy bay từ Sân bay Tân Sơn Nhất đến thẳng thủ đô Paris của nước Pháp, nơi đang diễn ra Hội nghị Paris về Việt Nam. Và người thực hiện sự chỉ đạo đó là nữ đảng viên Trần Thị Ngọc Sương (Sáu Sương), một đảng viên, cán bộ hoạt động đơn tuyến của Khu ủy ngay nội thành (nay cô Trần Thị Ngọc Sương nghĩ hưu ở Quẩn 3), và nhiều đảng viên khác cùng thực hiện gần 4 năm liền.
Từ mục tiêu cao cả của báo chí cách mạng tại chiến trường miền Nam, và báo chí tại các đô thị miền Nam, báo chí tuyệt đối trung thành với Đảng, trung thành với sự nghiệp cách mạng, đưa hết khả năng tác chiến trên chiến trường. Trong một thời gian dài, báo chí cách mạng miền Nam đã làm nên những tiếng nói chính nghĩa, đi cùng dân tộc, cùng góp sức làm nên những chiến công chói lọi của dân tộc ta trong thế kỷ XX, đi tới ngày thắng lợi, giành toàn vẹn thống nhất non sông./.