Gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở Tuyên Quang
Trước thời điểm hợp nhất, cả Hà Giang và Tuyên Quang đều là những địa phương có đông đồng bào dân tộc Dao sinh sống. Tại Hà Giang, người Dao chiếm tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu dân số toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở các khu vực vùng cao, trung du. Tại Tuyên Quang, theo số liệu thống kê trước sáp nhập, dân tộc Dao cũng là một trong những cộng đồng dân tộc thiểu số đông, sinh sống lâu đời tại nhiều khu vực nông thôn, miền núi. Sau hợp nhất, không gian sinh sống và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào Dao trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang mới được mở rộng, đặt ra yêu cầu cấp thiết trong công tác bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Dao một cách bền vững.

Người Dao thôn Xà Phìn thu hoạch thóc ngày mùa.
Đồng bào Dao định cư từ lâu đời, sinh sống thành các làng bản, luôn đề cao tinh thần đoàn kết cộng đồng, cần cù lao động và có ý thức gìn giữ phong tục, tập quán truyền thống. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, đến nay, người Dao cơ bản vẫn duy trì được các giá trị văn hóa đặc trưng, đồng thời từng bước thích ứng với sự phát triển chung của xã hội.

Đồng bào dân tộc Dao trong trang phục truyền thống, phản ánh bản sắc văn hóa đặc trưng của cộng đồng Dao tại khu vực miền núi tỉnh Tuyên Quang. Ảnh: Sưu tầm
Trang phục truyền thống của người Dao là dấu ấn nổi bật phản ánh bản sắc văn hóa tộc người. Trang phục chủ yếu sử dụng nền vải chàm, trang trí bằng các hoa văn thêu tay tinh xảo, mang ý nghĩa gắn với thiên nhiên và đời sống tâm linh. Mỗi nhóm Dao có đặc trưng riêng, thể hiện rõ qua khăn đội đầu, cách phối màu và trang sức bạc. Ở nhiều khu vực, đồng bào dân tộc Dao vẫn duy trì việc mặc trang phục truyền thống trong sinh hoạt hằng ngày, không chỉ trong lễ hội hay nghi lễ. Bộ trang phục gắn liền với lao động sản xuất, sinh hoạt gia đình và đời sống cộng đồng, thể hiện sự bền bỉ của bản sắc văn hóa qua thời gian, góp phần gìn giữ và lan tỏa giá trị văn hóa của dân tộc Dao.
Về nơi ở, người Dao thường làm nhà gần rừng, gần nguồn nước để thuận tiện cho sinh hoạt, chăn nuôi và sản xuất. Tùy điều kiện tự nhiên và từng nhóm người Dao, kiến trúc nhà ở có thể là nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất hoặc nhà trệt, song phổ biến là kiểu nhà ba gian hai chái. Bàn thờ được đặt trang trọng ở gian chính giữa; ngoài cửa thường có ống hương thờ thần giữ cửa. Trong nhà có hai bếp với chức năng khác nhau, vừa phục vụ sinh hoạt gia đình, vừa gắn với sản xuất và đời sống tâm linh.

Ngôi nhà sàn của người Dao với kiến trúc đặc trưng.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đồng bào Dao đã từng bước chuyển đổi phương thức canh tác, từ sản xuất nương rẫy sang trồng lúa nước trên ruộng bậc thang. Những thửa ruộng bậc thang không chỉ bảo đảm an ninh lương thực mà còn trở thành cảnh quan đặc sắc, góp phần khai thác tiềm năng du lịch, tạo sinh kế mới cho người dân tại nhiều khu vực vùng cao.
Về ngôn ngữ, phần lớn các nhóm người Dao sử dụng chung hệ thống tiếng nói, chỉ khác nhau đôi chút về âm sắc, thanh điệu; một số cộng đồng sinh sống xen cư với các dân tộc khác nên có sự giao thoa ngôn ngữ. Việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Dao trong lớp trẻ hiện nay đang gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của quá trình giao lưu, hội nhập và sự phổ biến của tiếng phổ thông. Nhiều làn điệu dân ca, bài hát cổ, hình thức hát đối đáp truyền thống dần bị mai một, nhường chỗ cho các loại hình văn hóa hiện đại.
Bên cạnh đó, người Dao còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống như trồng bông, dệt vải, làm giấy bản, chế tác đồ bạc, thêu hoa văn bằng sáp ong, làm nhạc cụ dân tộc… Những sản phẩm thủ công không chỉ phản ánh đời sống lao động mà còn thể hiện trình độ thẩm mỹ, thế giới nội tâm phong phú và tri thức dân gian được tích lũy qua nhiều thế hệ.

Lễ cúng ngày cuối năm của gia đình người Dao tại thôn Xà Phìn, tỉnh Tuyên Quang cầu mong bình an, no ấm.
Đời sống tín ngưỡng của người Dao rất phong phú, thể hiện qua hệ thống lễ hội, nghi lễ truyền thống gắn với quan niệm “vạn vật hữu linh”. Các nghi lễ như lễ cấp sắc, lễ Bàn Vương, lễ cầu mùa, lễ cầu phúc, cùng các nghi lễ vòng đời mang ý nghĩa sâu sắc trong đời sống tinh thần, là sợi dây gắn kết cộng đồng và gìn giữ bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, dưới tác động của kinh tế thị trường và thời đại số, một bộ phận người Dao trẻ có xu hướng giản lược vai trò của các nghi lễ, khiến nhiều giá trị văn hóa truyền thống đứng trước nguy cơ mai một.
Thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, thời gian qua, tại các khu vực có đông đồng bào Dao sinh sống đã xuất hiện nhiều mô hình tích cực trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa. Các hoạt động thành lập hội nghệ nhân dân gian, truyền dạy hát dân ca, nhạc cụ truyền thống, tổ chức câu lạc bộ văn hóa trong trường học, giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng đã góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tự hào dân tộc trong thế hệ trẻ.
Để công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc Dao đạt hiệu quả bền vững, cần tiếp tục tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực hỗ trợ nghệ nhân và cộng đồng duy trì nghề truyền thống. Đồng thời, chú trọng công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức phù hợp, trong đó phát huy vai trò của người có uy tín, già làng, nghệ nhân trong việc truyền dạy, dẫn dắt cộng đồng.
Cùng với sự quan tâm của Nhà nước, bản thân đồng bào Dao cũng cần nâng cao ý thức tự gìn giữ và phát huy văn hóa truyền thống; chủ động sàng lọc, loại bỏ những hủ tục lạc hậu, giữ gìn những giá trị tốt đẹp, phù hợp với đời sống hiện đại. Đây chính là nền tảng quan trọng để văn hóa dân tộc Dao tiếp tục được bảo tồn, lan tỏa và phát triển bền vững trong không gian tỉnh mới sau sáp nhập.
Biên tập viên Cổng TTĐT tỉnh



