Luật hóa các khái niệm nền tảng về chuyển đổi số
Sáng 11/12, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Luật Chuyển đổi số với 433/442 đại biểu Quốc hội có mặt biểu quyết tán thành, đạt 91,54% tổng số đại biểu.

Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Chuyển đổi số, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Luật Chuyển đổi số được xây dựng theo mô hình "luật khung" – quy định các nguyên tắc, yêu cầu và định hướng lớn, không đi sâu vào các quy định thuộc phạm vi điều chỉnh của luật chuyên ngành nhưng giữ vai trò tạo sự thống nhất trong cách thức tổ chức, điều phối quá trình chuyển đổi số trên phạm vi cả nước.
Luật Chuyển đổi số được thiết kế để xử lý các thách thức mới của giai đoạn dữ liệu số và kinh tế số, khi yêu cầu về kết nối, chia sẻ, tích hợp và vận hành các nền tảng số mang tính quyết định đối với năng lực cạnh tranh quốc gia.
Trong dự án luật, lần đầu tiên luật hóa các khái niệm nền tảng về chuyển đổi số - từ chuyển đổi số, hệ thống số, dữ liệu số, hạ tầng số, nền tảng số đến Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Chính phủ cho biết đã tiếp thu và chỉnh lý sâu sắc các định nghĩa này nhằm bảo đảm tính chặt chẽ về mặt khoa học, đồng thời thống nhất cách hiểu cho toàn bộ hệ thống chính trị và các chủ thể tham gia chuyển đổi số.
Điểm nhấn nữa là làm rõ sự khác biệt giữa chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin: nếu ứng dụng công nghệ thông tin chỉ chuyển hoạt động cũ lên môi trường số, thì chuyển đổi số là thay đổi cách thức vận hành, mô hình quản trị và phương thức cung cấp dịch vụ. Đây được coi là triết lý cốt lõi của luật, thể hiện tinh thần "chuyển đổi trước – số hóa sau".
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống khái niệm, dự thảo luật quy định rõ các công cụ quản trị vĩ mô như Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Khung kiến trúc quốc gia số, Khung quản trị dữ liệu, Khung năng lực số và Bộ chỉ số đo lường chuyển đổi số quốc gia. Những công cụ này được ví như "bộ điều phối trung tâm", giúp Nhà nước đánh giá tiến độ, thúc đẩy thực thi và bảo đảm tính đồng bộ giữa chuyển đổi số ở cấp quốc gia, cấp bộ ngành và địa phương. Đại diện cơ quan soạn thảo khẳng định việc luật hóa các khung này sẽ tạo sự thống nhất trong tổ chức triển khai, tránh tình trạng đầu tư phân tán, mỗi địa phương làm một kiểu như thời gian vừa qua.
Một nội dung nổi bật khác trong dự thảo luật là chính sách thu hẹp khoảng cách số, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Dự thảo luật quy định nguyên tắc ưu tiên nguồn lực để những khu vực này đạt mức độ hạ tầng đáp ứng được các dịch vụ số thiết yếu như học trực tuyến, khám chữa bệnh từ xa, dịch vụ công trực tuyến. Đồng thời, kinh tế số được coi là động lực tăng trưởng mới, vì vậy luật bổ sung cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng nền tảng số, tham gia vào chuỗi giá trị kinh tế số với kỳ vọng đóng góp tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tới.
Hiện đại hóa hoạt động dự trữ quốc gia

Với 436/436 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 92,18% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Luật Dự trữ quốc gia trong sáng 11/12.
Trước khi biểu quyết thông qua, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày Báo cáo tóm tắt tiếp thu, giải trình dự thảo luật.
Về dự trữ chiến lược, Chính phủ đã tiếp thu, chỉnh lý nguyên tắc quản lý hàng dự trữ quốc gia. Hàng dự trữ chiến lược thành hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược phải được quản lý chặt chẽ, an toàn, bí mật theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, không để thất thoát, lãng phí, chủ động đáp ứng kịp thời mục tiêu, yêu cầu của dự trữ quốc gia.
Ngoài ra, chỉnh lý quy định về chính sách của Nhà nước đối với dự trữ quốc gia thành Nhà nước ưu tiên đầu tư, nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực dự trữ quốc gia để hiện đại hóa hoạt động dự trữ quốc gia. Chỉnh lý quy định về dự trữ chiến lược đối với tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản quan trọng và tài nguyên số như sau: tài nguyên, khoáng sản chiến lược quan trọng, năng lượng quốc gia, sản phẩm công nghệ cao đáp ứng yêu cầu về chiến lược an ninh kinh tế, an ninh năng lượng và an ninh lương thực.
Về xã hội hóa dự trữ quốc gia, Chính phủ đã tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo hướng đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp tham gia dự trữ chiến lược được ưu đãi về thuế, tín dụng và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ trong từng thời kỳ, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các thành phần tham gia dự trữ chiến lược.
Mua bán hàng dự trữ chiến lược có sử dụng từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn ngoài ngân sách nhà nước được thực hiện theo cơ chế thỏa thuận, tự nguyện, hợp đồng theo quy định của Chính phủ và quy định của pháp luật khác có liên quan. Mua bán hàng dự trữ chiến lược từ nguồn hợp pháp của đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp do đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện được Nhà nước hỗ trợ chi phí quản lý, bảo quản và các hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.
Về phạm vi dự trữ chiến lược, dự thảo luật không đặt vấn đề dự trữ tiền, vàng, ngoại tệ vì đã được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân hàng và pháp luật khác có liên quan.
Về thí điểm mô hình dự trữ quay vòng sẽ được Chính phủ nghiên cứu khi xây dựng Nghị định để đảm bảo tính khả thi, hiệu quả, tránh lãng phí ngân sách nhà nước. Về chế độ chính sách đối với người làm công tác dự trữ quốc gia, dự thảo luật kế thừa và giữ nguyên quy định hiện hành, không bổ sung các loại phụ cấp mới.



