200 năm danh xưng Ninh Bình: Cội nguồn tạo nên sức mạnh và khát vọng vươn lên

Thứ tư, 23/03/2022 21:22
(ĐCSVN) – Qua các tài liệu của Viện Sử học, của các nhà nghiên cứu và theo phần viết về tỉnh Ninh Bình tại 3 tài liệu - Danh xưng Ninh Bình chính thức có từ năm 1822 (năm Minh Mệnh thứ ba) đến nay tròn 200 năm.
Long sàng đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng- Bảo vật quốc gia. 

Tỉnh Ninh Bình có diện tích tự nhiên gần 1.400 km2. Thiên nhiên đã tạo cho Ninh Bình một vùng đất có biển, có rừng núi, có đồng bằng, giàu tiềm năng phát triển toàn diện và là một địa bàn có thế hiểm yếu về quân sự: tiến có thể đánh, lui có thế giữ. Vì vậy, Ninh Bình là một vùng đất mang đầy dấu tích lịch sử. Dân số Ninh Bình năm 1992 có 819.600 người và đến hết năm 2021 tăng lên trên 973.000 người; đại bộ phận dân cư là dân tộc Kinh và có khoảng hơn 20.000 người thuộc dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là dân tộc Mường, sống tập trung ở một số xã miền núi huyện Nho Quan. Có 2 tôn giáo chính: Phật giáo và Công giáo; Phật giáo chiếm khoảng 5,18% và Công giáo chiếm 16, 3 % dân số (chủ yếu tập trung ở huyện Kim Sơn).

Ninh Bình là vùng đất giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, giàu truyền thống lịch sử văn hoá, là mảnh đất thiêng, từng là Kinh đô của Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của nước ta, là nơi phát tích của ba vương triều: Ðinh, Tiền Lê và Lý. Đặc biệt, năm 2014, Quần thể danh thắng Tràng An đã được tổ chức UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới - Di sản hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam Á.

Qua các tài liệu của Viện Sử học, của các nhà nghiên cứu và theo phần viết về tỉnh Ninh Bình tại 3 tài liệu - Danh xưng Ninh Bình chính thức có từ năm 1822 (năm Minh Mệnh thứ ba) đến nay tròn 200 năm. Trước khi có danh xưng Ninh Bình, nơi đây là một vùng đất cổ có con người cư trú rất sớm từ thời đại đồ đá cũ mà dấu tích còn lưu lại ở các di chỉ Thung Lang (Tam Điệp), hang Đăng Đắng (Cúc Phương).

Miền đất này đời Tần (255-207 trước công nguyên) thuộc Tượng quận. Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2 dưới đời nhà Hán, thuộc quận Giao Chỉ, đời Ngô và đời Tấn thuộc Giao Châu, đến cuối đời Lương là châu Trường Yên cũng thuộc Giao Châu.

Khi Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp và thu phục xong 12 sứ quân, thống nhất đất nước lập nên triều Đinh (968-980) đóng đô ở Hoa Lư thì đất này gọi là châu Đại Hoàng của nước Đại Cồ Việt. Đến đời Tiền Lê gọi là châu Trường Yên. Đời nhà Lý gọi là phủ Trường Yên, sau gọi là châu Đại Hoàng nước Đại Việt. Đầu đời Trần gọi là Lộ, sau đổi là Trấn Trường Yên. Năm Quang Thái thứ 10, đời Trần Thuận Tông, đổi thành Trấn Thiên Quan. Thời kỳ thuộc Minh gọi là châu Trường Yên.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh Ninh Bình dâng hương tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. 

Đời Thiệu Bình dưới triều Lê Thái Tông chia làm 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan thuộc về trấn Thanh Hoa. Đời Hồng Đức, Lê Thánh Tông cho nhập 2 phủ ấy vào Sơn Nam Thừa Tuyên. Đời nhà Mạc, gọi 2 phủ này là Thanh Hoa ngoại trấn, ngăn cách với

Thanh Hoa nội trấn bởi dãy núi Tam Điệp. Sau khi nhà Mạc bị tiêu diệt, nhà Lê đem 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan nhập vào Thanh Hoa gọi là Thanh Hoa ngoại trấn. Thời Tây Sơn cũng gọi là Thanh Hoa ngoại trấn thuộc Bắc thành.

Dưới triều Nguyễn, năm Gia Long thứ 5 (1806) đổi Thanh Hoa ngoại trấn thành đạo Thanh Bình. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), đổi tên đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình. Danh xưng Ninh Bình có từ đó. Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), mới chính thức đổi làm trấn Ninh Bình.

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình. Tỉnh Ninh Bình dưới triều Nguyễn có 2 phủ gồm 7 huyện: Phủ Yên Khánh gồm 4 huyện Yên Khánh, Yên Mô, Gia Viễn và Kim Sơn. Phủ Thiên Quan gồm 3 huyện Phụng Hoá, Yên Hoá và Yên Lạc.

Sau ngày thống nhất đất nước, ngày 27/12/1975, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá V ra Nghị quyết hợp nhất tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh. Ngày 26/12/1991, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá VIII ra Nghị quyết tách tỉnh Hà Nam Ninh thành 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình.

Ngày 01/4/1992, tỉnh Ninh Bình chính thức hoạt động theo đơn vị hành chính mới, gồm 5 huyện: Hoàng Long, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp, Kim Sơn và 2 thị xã: Ninh Bình, Tam Điệp. Tháng 11/1993, huyện Hoàng Long được đổi tên thành huyện Nho Quan. Tháng 7/1994, Chính phủ ra Nghị định số 59 về việc sát nhập thôn Đông Thôn, xã Yên Lâm vào xã Yên Thái, thành lập huyện Yên Khánh, đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô thuộc tỉnh Ninh Bình. Ngày 7/02/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/2007/NĐ-CP, thành lập thành phố Ninh Bình trực thuộc tỉnh. Ngày 10/4/2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII ban hành Nghị quyết số 904/ NQ-UBTVQH, thành lập thành phố Tam Điệp trực thuộc tỉnh.

Hiện nay, tỉnh Ninh Bình có 02 thành phố và 6 huyện với 143 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 119 xã, 17 phường và 7 thị trấn.

Danh thắng Tràng An thu hút khách du lịch. 

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, vùng đất và con người Ninh Bình đã để lại những dấu ấn đặc biệt. Đầu Công nguyên, Hai Bà Trưng dựa vào địa hình rừng núi Tam Điệp để chống lại quân Đông Hán do Mã Viện chỉ huy, tại đây nhân dân trong vùng đã cung cấp lương thảo, gia nhập nghĩa quân đánh giặc.

Những năm đầu thế kỷ X, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền dựa vào dãy núi Tam Điệp đắp thành luỹ để xây dựng và bảo vệ lực lượng ở miền Thanh Hoá, rồi tiến quân đánh thắng quân Nam Hán, lập chiến công vang dội ở Đại La năm 930, Bạch Đằng năm 938. Vào nửa cuối thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp và thu phục 12 sứ quân, thu giang sơn về một mối, lập vương triều phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở nước ta, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, dựng kinh đô ở đất Hoa Lư, vào năm 968 xây dựng triều chính và quản lý đất nước.

Những năm cuối thế kỷ X, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, lập vương triều nhà Lê (thay thế vương triều Đinh) trực tiếp thống lĩnh quân sỹ kháng Tống, bình Chiêm giữ vững nền độc lập và bờ cõi đất nước. Tiếp theo nhà Lê, năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra nhà Lý, năm 1010 quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La (Thăng Long - Hà Nội).

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên thế kỷ XIII, các vua Trần lấy dãy núi Tam Điệp làm bức tường thành bảo vệ vùng Châu Ái, Châu Hoan (Thanh Hoá, Nghệ An). Năm 1285, vương triều Trần thực hiện chính sách “vườn không nhà trống” rút khỏi kinh thành Thăng Long về vùng đất Ninh Bình xây dựng căn cứ địa Trường Yên (thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư ngày nay). Từ căn cứ này, các vua Trần tổ chức quân dân Đại Việt phản công đánh thắng quân Mông - Nguyên xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ nước nhà.

Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầu thế kỷ XV, nghĩa quân Lê Lợi nhiều lần tiến quân đánh giặc Minh xâm lược, qua vùng Tam Điệp, Nho Quan (huyện Khôi), Nhân dân ủng hộ lương thảo và gia nhập nghĩa quân tham gia chiến đấu, giải phóng các lộ vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cuối thời hậu Lê, Ngô Thì Nhậm chọn vùng núi Tam Điệp – Biện Sơn, Ninh Bình làm nơi phòng thủ, chờ đại quân Tây Sơn tiến ra Bắc. Từ Tam Điệp, đại quân Quang Trung - Nguyễn Huệ tiến đánh tan 29 vạn quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), giải phóng kinh thành Thăng Long, giành lại độc lập cho muôn nhà.

Truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của Nhân dân Ninh Bình ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Ninh Bình là một trong những địa phương sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 9/1927, Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đầu tiên được thành lập tại làng Lũ Phong, tổng Quỳnh Lưu (Nho Quan) do đồng chí Lương Văn Thăng làm Bí thư; đến ngày 24 tháng 6 năm 1929, Chi bộ chuyển tên thành Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương. Đây là chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Ninh Bình. Sau khi được thành lập, chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên Lũ Phong đã tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, gây dựng cơ sở phát triển nhiều hội viên, thành lập một số chi bộ khác trong tỉnh. Việc thành lập chi bộ cách mạng sớm đã kịp thời tuyên truyền giác ngộ nhân dân, góp phần cùng với quân và dân cả nước làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đóng góp những chiến công to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xứng đáng là quê hương anh hùng của một dân tộc anh hùng.

Trong niềm vui chung của cả dân tộc, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân Ninh Bình bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng quê hương, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 16 năm hợp nhất tỉnh Hà Nam Ninh (1976-1991), quân dân các huyện, thị xã khu vực Ninh Bình phấn đấu góp phần cùng cả tỉnh giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, vượt qua giai đoạn khó khăn, thử thách, tạo ra những động lực quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống Nhân dân.

Trong thực tiễn xây dựng và chiến đấu bảo vệ quê hương, người dân Ninh Bình đời sau nối tiếp đời trước hun đúc nên những phẩm chất, tính cách cao đẹp trở thành truyền thống quý báu. Đó là truyền thống lao động cần cù sáng tạo, đoàn kết, đùm bọc giúp đỡ nhau trong khó khăn, gian khổ, chống đỡ, khắc phục hậu quả thiên tai, dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Quá trình lịch sử đấu tranh xây dựng và phát triển quê hương của Nhân dân Ninh Bình đã sáng tạo một không gian văn hoá đặc sắc, năng động; đến nay, có 1.821 di tích lịch sử, văn hoá, trong đó có 379 di tích đã được xếp hạng; 81 di tích cấp quốc gia; 298 di tích cấp tỉnh; có 03 di tích cấp Quốc gia đặc biệt: Di tích lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật Cố đô Hoa Lư; khu du lịch sinh thái Tràng An-Tam Cốc - Bích Động; Di tích lịch sử và Danh lam thắng cảnh núi Non Nước. Đặc biệt, năm 2014, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới (Di sản hỗn hợp thứ 38 của thế giới và là đầu tiên của Đông Nam Á).

Những thành tựu rực rỡ về kiến trúc, điêu khắc như đền thờ Vua Đinh - Vua Lê, đền Thái Vi, nhà thờ đá Phát Diệm…; những áng thơ văn, lễ hội, ca múa, trong đó hát Chèo có từ thời Đinh, hát Ca Trù, hát Xẩm ở Yên Phong (Yên Mô), hát Văn (Phủ Đồi, Nho Quan)... còn duy trì và phát triển đến ngày nay.

Nhiều danh nhân nổi tiếng như Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ, Dương Vân Nga, Nguyễn Minh Không, Trương Hán Siêu, Ninh Tốn, Vũ Duy Thanh, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật và các vị khoa bảng, nhà văn hoá, nhà khoa học đương đại được sinh ra và lớn lên ở vùng đất này.

Mỗi ngọn núi, con sông trên đất Ninh Bình đều là những địa danh ghi lại những dấu tích về văn hoá, lịch sử trong tiến trình thích ứng với thiên nhiên, chống thù trong, giặc ngoài để đứng vững và phát triển. Mỗi tên đất, tên làng đều thể hiện khát vọng về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc bền vững của Nhân dân trên mảnh đất Ninh Bình…/.

PV

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực