Sáng 28/3, Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng bước sang ngày làm việc thứ hai. Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ giới thiệu, quán triệt chuyên đề: “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025”.
Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới
Tại hội nghị, báo cáo về quá trình xây dựng, hoàn thiện về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tới (2021-2025), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết Chiến lược được nghiên cứu, tổng hợp kết quả 42 nhóm chuyên đề trên các lĩnh vực, cùng với việc tổ chức hội thảo tham vấn ý kiến nhiều tổ chức quốc tế, chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước; tổ chức Hội nghị xin ý kiến các đồng chí nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức 07 hội nghị với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo vùng để đánh giá, tổng kết thực tiễn. Xây dựng, hoàn thiện các dự thảo bảo cáo, văn kiện, trình và tiếp thu các ý kiến tại các Phiên họp Bộ Chính trị, các Hội nghị lần thứ 10, 11, 13, 14 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, của các đồng chí nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và ý kiến của Đại hội đảng các cấp, các đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cán bộ, nhân dân cả nước…
|
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giới thiệu, quán triệt chuyên đề về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Phương hướng, nhiệm vụ 5 năm tới (2021-2025). |
Đánh giá về tình hình đất nước hiện nay, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thế và lực lớn mạnh hơn nhiều, quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; có nhiều kinh nghiệm quý trong thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
Đánh giá về chung về thành quả đạt được trong thực hiện chiến lược 10 năm 2011-2020 và trong nhiệm kỳ 2016-2021, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định đã góp phần quan trọng tô đậm thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao, bình quân 2011-2015 đạt 5,9%/năm; 2016-2020 đạt 6%/năm; tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 5,95%/năm. Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.
Giai đoạn 2016-2020: 4 năm đầu 2016-2019 đạt mức tăng trưởng cao 6,8%/năm. Riêng năm 2020 mặc dù đại dịch COVID-19 ảnh hưởng rất nặng nề nhưng vẫn đạt 2,91%.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chia sẻ, quốc tế đánh giá Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới; là điểm sáng trên toàn cầu trong việc thực hiện thành công “mục tiêu kép”, vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân.
|
Các đồng chí lãnh đạo tham dự Hội nghị sáng 28/3 |
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Thủ tướng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, như tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm; chưa phát huy được đầy đủ, hiệu quả các tiềm năng, lợi thế phát triển; tỷ lệ tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu chưa cao; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong một số lĩnh vực còn chưa được phát huy; kết cấu hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chất lượng chưa cao; tăng trưởng GDP có xu hướng chững lại, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải đối mặt với thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả bền vững tài nguyên, đất đai và nguồn nước; tình trạng ô nhiễm môi trường có nơi còn diễn biến phức tạp; tác động, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày càng nặng nề. Mặt khác, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực chưa cao; nguồn lực cho quốc phòng, an ninh còn hạn hẹp, nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, trong bối cảnh mới đầy khó khăn, thách thức, phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm. Trong đó, phải đẩy mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số, đẩy mạnh tiêu dùng nội địa, giải quyết việc làm.
Đồng thời phải phát huy mạnh mẽ vai trò của của các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu, thúc đẩy hình thành các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, phát triển mạnh mẽ thị trường nội địa. Từng bước hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới.
Tập trung khắc phục hiệu quả tác động của đại dịch COVID-19, xây dựng các mô hình mới, tận dụng tốt các cơ hội chuyển dịch đầu tư khu vực và toàn cầu.
Với niềm tin và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của toàn dân tộc, Việt Nam cần nhanh chóng bứt phá, rút ngắn khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới, nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu sớm trở thành nước thu nhập trung bình cao.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã xác định đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng), Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và xác định cả tầm nhìn đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước) trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Việt Nam phấn đấu đến năm 2030, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 7.500 USD. Trong 5 năm tới (2021-2025), Việt Nam xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân đạt khoảng 6,5-7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD.
|
5 quan điểm phát triển để rút ngắn khoảng cách phát triển với thế giới
Để đạt được mục tiêu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chia sẻ 5 quan điểm phát triển:
Quan điểm 1: Phát triển nhanh và bền vững; dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt cơ hội để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số; phát triển hài hoà 03 trụ cột kinh tế - xã hội - môi trường…
Quan điểm 2: Lấy cải cách, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực, nhất là đất đai
Hệ thống pháp luật phải thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình mới. Phát triển nhanh, hài hoà các khu vực kinh tế, loại hình doanh nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế…
Quan điểm 3: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng cho phát triển bền vững…
Quan điểm 4: Xây dựng nền kinh tế tự chủ dựa trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập; phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại.
Quan điểm 5: Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân…
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết chủ đề chiến lược phát triển đất nước trong thời gian tới là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Thủ tướng cho biết, 3 thành tố trọng tâm trong chủ đề chiến lược gồm: Thứ nhất, động lực và tinh thần quyết tâm: Khơi đậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại.
Thứ hai, cách thức và phương tiện chủ yếu là: Huy động mọi nguồn lực phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, và chuyển đổi số.
Thứ 3 về mục tiêu phấn đấu: Phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, cán bộ đảng viên chúng ta đều có nguyện vọng đưa đất nước tiến bước. Đây là truyền thống quý, không chịu đói nghèo, không chịu tụt hậu, không chịu thua kém. Tất cả điều đó cũng là sự hiện thực hóa ước nguyện của Bác, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu và mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Chiến lược xác định 11 chỉ tiêu, trong đó có 7 chỉ tiêu kinh tế, 4 chỉ tiêu môi trường. Áp lực đối với chúng ta là liên tục tăng trưởng cao. Các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc có 2-3 thập niên liền liên tục tăng trưởng cao.
Việt Nam hoàn toàn có khả năng tăng trưởng cao, nếu không có biện pháp để tăng trưởng cao thì sẽ tụt hậu, không phát triển bền vững, nghèo, thu nhập thấp, lạc hậu.
Chúng ta phải đi trước đón đầu, quyết tâm chính trị cao, ý chí dân tộc và khát vọng phát triển trong mọi người dân, cơ sở trong thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu. Cho nên, tăng trưởng cao liên tục trong mấy thập kỷ là điều cần thiết. Năm nay, chúng ta phấn đấu 6-6,5%, sang năm có thể 7%, nhưng sắp tới phải 8-9% bình quân.
|
Các đại biểu tham dự Hội nghị tại Phòng họp Diên Hồng, Nhà Quốc hội. |
Những nội hàm mới trong các đột phá chiến lược
Trên cơ sở phân tích bối cảnh quốc tế, tình hình trong nước và những vấn đề đặt ra, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nêu rõ những nội hàm mới trong các đột phá chiến lược để thực hiện mục tiêu.
Theo đó, đột phá thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao chất lượng thể chế, bảo đảm đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập (trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, thị trường khoa học, công nghệ).
Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường; đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội.
Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất và phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành.
Đột phá thứ hai là, tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị, văn hóa, con người Việt Nam.
Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để đạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh (có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội).
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào đân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam.
Đột phá thứ ba là tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại. Trọng tâm là ưu tiên phát triển hạ tầng trọng yếu về giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, đô thị lớn, hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu.
Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia, vùng, địa phương kết nối đồng bộ thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.
|
Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng |
Phấn đấu đến năm 2030 trở thành quốc gia ổn định và thịnh vượng
Trên cơ sở những nội hàm mới trong các đột phá chiến lược, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện là: Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tập trung xây dựng, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch phát triển. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm.
Xây dựng và thực hiện các giải pháp chính sách khắc phục tác động của dịch bệnh COVID-19, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, tận dụng hiệu quả các cơ hội mới.
Cơ cấu lại các ngành, kĩnh vực một cách thực chất để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh (thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh…)
Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.
Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.
Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng (chú trọng thu hút các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ cao, góp phần thúc đẩy cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả kinh tế).
Phát triển mạnh nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Bảo đảm am ninh lương thực; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường, xuất khẩu.
Phát triển công nghiệp kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu. Khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn.
Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch vụ trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành du lịch, bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại.
Ưu tiên chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực như y tế, giáo dục đào tạo, tài chính ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên môi trường, sản xuất công nghiệp.
Phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số.
Phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới....
Bên cạnh đó, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường. Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,…
Đẩy nhanh tốc độ, nâng cao chất lượng đô thị hóa và kinh tế đô thị. Đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Về tổ chức thực hiện, Thủ tướng lưu ý các cấp, các ngành từ trung ương tới địa phương phải xây dựng chương trình, kết hoạch hành động cụ thể. Theo đó, Chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ. Từng cấp, từng ngành, từng địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể theo quy định trong phạm vi quản lý, chức năng, nhiệm vụ được giao.
Đồng thời phải tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt, động bộ hiệu quả. Chú trọng tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, nút thắt với phương châm xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.
Cùng với đó, có kế hoạch cụ thể về kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện. Quy định rõ trách nhiệm cụ thể đối với cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu…/.