Hiệp định Paris 1973 được ký vào ngày 27/1/1973 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của Nhân dân Việt Nam. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào” với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam,...
Hiệp định Paris 1973 được ký vào ngày 27/1/1973 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của Nhân dân Việt Nam. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào” với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam tại Paris,
ngày 27/01/1973. (Ảnh tư liệu)
Bước ngoặt sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đã gây ra cho đế quốc Mỹ một đòn "choáng váng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của chúng; làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc cũng như toàn nước Mỹ. Đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, từ chiến tranh cục bộ sang "Việt Nam hóa chiến tranh" với hy vọng giảm dần sự tham gia trực tiếp và giao trách nhiệm chiến đấu cho chính quyền Sài Gòn. Tuy nhiên, chiến lược này không thể xoay chuyển cục diện chiến trường khi lực lượng cách mạng miền Nam tiếp tục giành được nhiều thắng lợi quan trọng.
Cùng với đó, phong trào phản chiến tại Mỹ và áp lực từ cộng đồng quốc tế gia tăng mạnh mẽ. Nội bộ chính quyền Nixon cũng chia rẽ về khả năng kéo dài cuộc chiến. Trong bối cảnh đó, Mỹ buộc phải tìm kiếm một giải pháp ngoại giao để rút lui mà vẫn duy trì thể diện. Ngày 31/3/1968, Tổng thống Mỹ Johnson đã tuyên bố: hy vọng đi tới hội nghị hòa bình với tinh thần “tìm kiếm một nền hòa bình trong danh dự”. Ngày 3/4/1968, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ra tuyên bố sẵn sàng cử đại diện tiếp xúc với Mỹ. Đây chính là tiền đề dẫn đến cuộc đàm phán Paris. Tuy nhiên phải mất 30 ngày, hai bên mới thỏa thuận, thống nhất được địa điểm họp ở Paris theo sáng kiến của ta.
Đỉnh cao nghệ thuật “vừa đánh vừa đàm”
Đàm phán Paris chính thức bắt đầu từ tháng 5/1968. Khác với Hội nghị Geneva năm 1954, khi đó ta “đánh” rồi mới “đàm", lần này ta vừa đánh vừa trực tiếp đàm phán với đối phương. Quá trình thương lượng diễn ra vô cùng căng thẳng, kéo dài suốt gần 5 năm với nhiều vòng đấu trí quyết liệt. Ban đầu, Mỹ tìm mọi cách gây sức ép với phái đoàn Việt Nam, từ việc kéo dài thời gian đàm phán đến việc tiếp tục leo thang quân sự. Tuy nhiên, trước lập trường kiên định của Việt Nam và những chiến thắng vang dội của quân ta trên chiến trường, Mỹ dần dần phải nhượng bộ.
Theo đó, ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức khai mạc. Trong giai đoạn 1 của Hội nghị (13/5 đến 31/10/1968), mục tiêu của ta là đòi Mỹ chấm dứt ném bom vô điều kiện miền Bắc. Giai đoạn này, đàm phán diễn ra gần như đồng thời với đợt hai và ba của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Hai mặt trận đánh-đàm đã có sự phối hợp, hỗ trợ cho nhau nhưng tác dụng trực tiếp còn ít vì trên bàn thương lượng, Mỹ chưa đi vào đàm phán thực chất. Ta chủ yếu đấu tranh để kéo Mỹ xuống thang từng bước.
Tháng 1/1969, Hội nghị 4 bên (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn) chính thức họp phiên đầu tiên tại Paris. Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên - Việt Nam và Mỹ - rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn Hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng.
Càng về sau, thế trận “vừa đánh vừa đàm” càng phát huy hiệu quả. Cả hai bên đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho đối phương phải nhượng bộ trên bàn đàm phán.
Từ cuối năm 1971, những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch: Đường 9-Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia (năm 1971); Chiến dịch tiến công Trị-Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… (năm 1972) đã làm quân Mỹ-nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Đặc biệt là cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm, đã tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán, phái đoàn Việt Nam đã chủ động đưa ra Dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” (ngày 8/10/1972).
Lúc đầu, bản Dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản Dự thảo. Nhằm tăng sức ép để Việt Nam phải nhượng bộ trên bàn đàm phán, từ ngày 18/12 đến 30/12/1972, đế quốc Mỹ đã mở cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B.52 ném 10 vạn tấn bom xuống Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và các tỉnh miền Bắc. Nhưng chúng không ngờ rằng “gậy ông đập lưng ông”, bằng ý chí kiên cường, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng lịch sử “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” khiến Mỹ chịu tổn thất nặng nề.
Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội đã đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc chúng phải nối lại đàm phán tại Paris. Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của Dự thảo Hiệp định đã thoả thuận, kết thúc đàm phán để đi đến ký kết.
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký tắt ngày 13/1/1973. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris chính thức được ký kết với những nội dung quan trọng: Hai bên ngừng bắn ở miền Nam, Mỹ cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống phá miền Bắc Việt Nam; cam kết rút hết quân đội của mình và quân đồng minh, không dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài; Hai bên trao trả tù binh và dân thường bị bắt; Mỹ cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam…
Biểu hiện sáng ngời của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam
Hiệp định Paris được ký kết đã kết thúc thắng lợi cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới để quân và dân ta tiến lên "đánh cho ngụy nhào" với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất và phát triển ở Việt Nam.
Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh kiên cường, bất khuất và hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó, ngoại giao đã trở thành một mặt trận tiến công, kết hợp nhuần nhuyễn và chuyển hóa hoàn toàn thắng lợi trên mặt trận chính trị, quân sự thành thắng lợi trên bàn đàm phán, thể hiện sáng ngời bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam.
Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý. Phong trào chống chiến tranh xâm lược phi nghĩa và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng trên thế giới. Phong trào đã trở thành biểu tượng của thời đại và tiêu biểu cho lương tri loài người. Vì vậy, chiến thắng của nhân dân Việt Nam tại Hội nghị Paris nói riêng và trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước nói chung là niềm cổ vũ mạnh mẽ cho các dân tộc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới vững tin vào chiến thắng của chính nghĩa và công lý.
Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô giá. Đó là luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trong đó độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là cốt lõi. Đó là bài học “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mềm dẻo, khéo léo nhưng kiên định và quyết liệt. Trong suốt gần 5 năm đàm phán, Việt Nam luôn kiên định mục tiêu chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước. Dù đế quốc Mỹ gia tăng sức ép quân sự, ngoại giao và có lúc đàm phán bế tắc, Việt Nam vẫn vững vàng, bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhưng Việt Nam linh hoạt trong chiến thuật đàm phán, kết hợp đối thoại công khai và bí mật, khéo léo khai thác mâu thuẫn nội bộ Mỹ, tận dụng phong trào phản chiến để buộc đối phương nhượng bộ. Đó còn là bài học sâu sắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Hiệp định Paris năm 1973 là một trong những thắng lợi mang tầm vóc lịch sử của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Đó không chỉ là kết quả của gần 5 năm đấu trí căng thẳng trên bàn đàm phán mà còn là minh chứng hùng hồn cho bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh của Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ thế trận "vừa đánh vừa đàm", Việt Nam đã biến mặt trận ngoại giao thành một mũi tiến công chiến lược, buộc Mỹ phải rút quân và tạo tiền đề vững chắc để quân và dân ta tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam vào mùa Xuân 1975. Và những bài học quý báu từ cuộc đấu tranh ngoại giao này vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay./.
Theo TTXVN