Về nội dung này, trao đổi với phóng viên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, luật gia Ninh Văn Quang, Công ty luật TNHH Trường Sơn (địa chỉ tại Thành phố Hà Nội) cho biết theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 41 Mục 1 Chương IV Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 (Số: 28/2009/QH12, ngày 17/6/2009), phiếu lý lịch tư pháp là loại phiếu cấp cho cá nhân công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt Nam yêu cầu cấp cho mình và phiếu cấp cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Đây là những thông tin về bí mật đời tư của cá nhân, chỉ được cung cấp trong trường hợp cá nhân có yêu cầu hoặc cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong trường hợp cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội yêu cầu để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Bên cạnh việc thu thập dữ liệu, thông tin về án tích của người bị kết án, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã giao cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp còn có trách nhiệm ghi nhận việc xóa án tích trong trường hợp người bị kết án đủ điều kiện đương nhiên xóa án tích và cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận "không có án tích" khi người đó có yêu cầu. Đây là thông tin rất quan trọng, góp phần giúp những người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng.
|
Người dân làm thủ tục xin cấp phiếu lý lịch tư pháp (Ảnh minh họa, nguồn: cand.com.vn)
|
“Do đó, việc cấp phiếu lý lịch tư pháp phải tuân theo quy trình, thủ tục nghiêm ngặt, phải thực hiện tra cứu, xác minh thông tin tại một số cơ quan có liên quan để xác định một người có án tích hay không có án tích, đồng thời phải bảo đảm bí mật đời tư của người yêu cầu cấp phiếu”, luật gia Quang phân tích.
Điều 44 Mục 2 Chương IV Luật Lý lịch tư pháp xác định rõ: Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thực hiện việc cấp phiếu lý lịch tư pháp trong các trường hợp sau đây: Công dân Việt Nam mà không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú; Người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam.
Sở Tư pháp thực hiện việc cấp phiếu lý lịch tư pháp trong các trường hợp sau đây: Công dân Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở trong nước; Công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài; Người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam.
Giám đốc Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Giám đốc Sở Tư pháp hoặc người được ủy quyền ký phiếu lý lịch tư pháp và chịu trách nhiệm về nội dung của phiếu lý lịch tư pháp. Trong trường hợp cần thiết, Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Việc cấp phiếu lý lịch tư pháp phải được ghi vào sổ cấp phiếu lý lịch tư pháp theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định.
Việc Sở Tư pháp là cơ quan thực hiện việc quản lý lý lịch tư pháp thống nhất tại địa phương để bảo đảm hoạt động cấp phiếu được thực hiện nhanh chóng, hạn chế khâu trung gian, tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm đầu mối phối hợp với các cơ quan có liên quan như Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan thi hành án, trại giam… để thực hiện việc tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp của cá nhân.
Do vậy, nếu phân cấp về đơn vị cấp xã hoặc cấp huyện sẽ gây khó khăn trong việc phối hợp điều tra thông tin cũng như xác minh các điều kiện khác để thực hiện cấp phiếu lý lịch tư pháp. Ví dụ như Thủ đô Hà Nội bao gồm 12 quận, 17 huyện, 1 thị xã và 579 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn sẽ tạo ra bước trung gian, tăng biên chế, tăng kinh phí, nguồn lực phục vụ cho công tác này…
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 45 Mục 2 Chương IV Luật Lý lịch tư pháp năm 2009, cá nhân có thể uỷ quyền cho người khác làm thủ tục yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp. Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản theo quy định của pháp luật; trường hợp người yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được cấp phiếu lý lịch tư pháp thì không cần văn bản ủy quyền.
Đồng thời, theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 24 Mục 3 Chương II Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, thì người yêu cầu chứng thực chữ ký của mình phải xuất trình bản chính hoặc bản sao có chứng thực giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn giá trị sử dụng.
Từ những nội dung trên trong các văn bản quy phạm pháp luật và đối chiếu với câu hỏi của bạn đọc Nguyễn Trung Hiểu, xin được trả lời như sau: bạn Nguyễn Trung Hiếu được phép ủy quyền cho người khác đến cơ quan có thẩm quyền, cụ thể ở đây là Sở Tư pháp để làm phiếu lý lịch tư pháp.
Hiện nay, để tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, hoạt động cấp phiếu lý lịch tư pháp đã được thực hiện qua nhiều phương thức: Trực tiếp, bưu chính, trực tuyến. Đặc biệt, thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 tại Quyết định 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, năm 2022, Bộ Tư pháp đã ban hành văn bản hướng dẫn các địa phương thực hiện tái cấu trúc quy trình cấp phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến mức độ 3 và 4.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng xây dựng, trình Chính phủ xem xét, thông qua dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp, trong đó có quy định về việc cấp phiếu lý lịch tư pháp điện tử để góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính về lý lịch tư pháp.
Có thể nói, nhu cầu xin cấp phiếu lý lịch tư pháp của người dân tại nhiều địa phương thời gian qua có hiện tượng tăng đột biến do các đơn vị ồ ạt tuyển dụng lao động sau thời gian khó khăn vì COVID-19. Thêm vào đó là số lượng lớn sinh viên ra trường đi làm hoặc đi du học. Thông thường, hàng năm, thời điểm cuối tháng 3, tháng 4, tháng 5 là giai đoạn cao điểm trong xin cấp phiếu lý lịch tư pháp./.