|
Ảnh minh họa: Bích Liên. |
Khẳng định tiềm năng, lợi thế của biển và hải đảo
Theo Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Đức Toàn, biển, đảo là không gian sinh tồn, gắn bó mật thiết từ bao đời nay với mỗi người dân. Với bờ biển dài hơn 3.260 km, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, vùng biển rộng lớn đứng thứ 27 trong 157 quốc gia ven biển và các quốc đảo, vùng biển Việt Nam có diện tích gấp ba lần diện tích đất liền, chiếm khoảng 30% diện tích Biển Đông.
Vùng biển nước ta có nhiều hệ sinh thái có mức độ đa dạng sinh học cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, bao gồm hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, đất ngập nước,... cùng với đó là các loài cá biển, chim biển, thú biển và bò sát với nhiều loài có giá trị kinh tế cao, nhiều loài quý hiếm. Khoáng sản biển phong phú về chủng loại, đặc biệt là dầu khí, băng cháy, sắt, titan, cát thủy tinh và các loại sa khoáng khác.
Nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự phát triển, sự thịnh vượng của đất nước, từ năm 2007, tại Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua chủ trương phát triển kinh tế biển và ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh Thế kỷ 21 là “Thế kỷ của đại dương”.
Tổng kết Nghị quyết số 09-NQ/TW, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW với mục tiêu sẽ “đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển”. Một lần nữa, vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự phát triển chung của đất nước tiếp tục được khẳng định.
Theo Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, về kinh tế, Việt Nam được dự báo trở thành nền kinh tế lớn thứ 29 thế giới vào năm 2030 và sẽ vươn lên vị trí thứ 20 vào năm 2050. Tăng trưởng của cả nước dự tính khoảng 6,5 - 7,0% trong thời kỳ 2021 - 2030; trong đó, 28 tỉnh, thành phố ven biển đóng góp khoảng 65 - 70% vào tổng GDP cả nước. Phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, các-bon thấp, chống chịu cao gắn với giảm phát thải ròng bằng không vào năm 2050, với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học được Đảng, Nhà nước quan tâm, doanh nghiệp và người dân ủng hộ. Do đó, việc phân bổ, quản lý hiệu quả và sử dụng bền vững không gian biển phải theo các xu hướng này, đáp ứng yêu cầu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Các chuyên gia cũng cho rằng, trước các tiềm năng, lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý của biển, đảo, thực trạng, nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên, không gian biển và các vấn đề tài nguyên, môi trường biển, cần thiết phải có sự chung tay quản lý từ trung ương đến địa phương.
Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn cho biết, thời gian qua, nhiều địa phương đã tích cực, chủ động giải quyết các vấn đề về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Tuy nhiên, bên cạnh những những kết quả đạt được trong công tác quản lý tài nguyên, môi trường biển và đảo, chúng ta vẫn đang đối mặt với hàng loạt các vấn đề phải quan tâm giải quyết như: Vấn đề về suy thoái cảnh quan, hệ sinh thái biển và ven biển; tình hình ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường biển, biển ven bờ có dấu hiệu gia tăng; sự gia tăng các tác động tiêu cực do thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, các hiện tượng khí hậu cực đoan; mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên, không gian biển giữa các ngành, các bên có liên quan; nguồn lực bao gồm nguồn nhân lực và tài chính đầu tư cho lĩnh vực biển, hải đảo từ trung ương đến địa phương còn hạn chế.
“Quản lý với tư duy chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm”
Để giải quyết các vấn đề về công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới, Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn cho rằng, các đơn vị liên quan, các Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương cần tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, hướng dẫn kỹ thuật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo làm cơ sở cho các tỉnh triển khai thực hiện. Trong đó, tập trung đánh giá, tổng kết thi hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trên cơ sở đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Đồng thời, tiếp tục phối hợp triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển kinh tế biển; Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch thực hiện các Quy hoạch.
Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn cũng cho rằng, công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo cần được thực hiện với tư duy quản lý mang tính đột phá, phương thức quản lý chuyển từ bị động sang chủ động, từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
“Cục Biển và Hải đảo Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, hướng dẫn kỹ thuật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo làm cơ sở cho các tỉnh, thành phố thực hiện. Cục tăng cường phối hợp, trao đổi thông tin với Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố có biển trong việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; phối hợp khảo sát, nắm bắt tình hình các hoạt động trên biển và ven bờ, đánh giá hiện trạng môi trường; phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường biển; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo…”, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo cho biết./.