Cổng thông tin điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ tịch Quốc hội
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kỳ họp thứ 10: Điểm kết trọn vẹn của nhiệm kỳ Quốc hội bản lĩnh, trí tuệ, đổi mới

Kỳ họp thứ 10 - Kỳ họp cuối cùng của nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV đã hoàn thành khối lượng công việc nhiều kỷ lục trong lịch sử gần 80 năm hoạt động của Quốc hội, tính trong phạm vi 1 kỳ họp. Thành công này đã góp phần tạo nên điểm kết đầy trọn vẹn cho một nhiệm kỳ nhiều khó khăn, thử thách, biến động nhưng cũng không kém phần tự hào, vẻ vang; một nhiệm kỳ Quốc hội của bản lĩnh - trí tuệ - đổi mới - sáng tạo, luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất vì lợi ích quốc gia, dân tộc, để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển của đất nước.

Toàn cảnh phiên bế mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV

Xác lập kỷ lục số lượng luật, Nghị quyết thông qua trong một Kỳ họp nhưng vẫn bảo đảm chất lượng

Dấu ấn đậm nét nhất phải nhắc tới tại Kỳ họp thứ 10 chính là công tác lập pháp. Trong suốt 15 khoá hoạt động của Quốc hội, Kỳ họp thứ 10 được coi là Kỳ họp lịch sử khi ghi nhận trong phạm vi 1 kỳ họp số lượng luật, nghị quyết được thông qua nhiều kỷ lục với 51 luật, 39 Nghị quyết, trong đó có 8 Nghị quyết về quy phạm pháp luật (chiếm 30% tổng số luật, nghị quyết QPPL của cả nhiệm kỳ khóa 15). Các luật, Nghị quyết được thông qua bao quát, trải rộng trên nhiều lĩnh vực quan trọng, cấp thiết trong bối cảnh hiện nay: từ kinh tế - tài chính - đầu tư cho tới xã hội - y tế - dân số - giáo dục; an ninh quốc gia - an toàn thông tin - trí tuệ nhân tạo - chuyển đổi số - công nghệ cao; quy hoạch - bảo vệ môi trường - quản lý tài nguyên…

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, Quốc hội khoá XV đã nỗ lực vượt bậc, thích ứng linh hoạt, hành động quyết liệt và kiến tạo phát triển

Nhìn lại các khoá gần đây nhất thì Khoá XII đã thông qua 67 luật, 13 nghị quyết; Khoá XIII thông qua Hiến pháp 2013, 108 luật, bộ luật; Quốc hội khoá XIV thông qua 72 luật, 135 nghị quyết. Như vậy để thấy rằng con số 51 luật, 39 Nghị quyết được thông qua chỉ trong phạm vi 1 kỳ họp thực sự là con số ấn tượng.

Vậy tại sao Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV lại phải thực hiện khối lượng công việc lập pháp nhiều đến như vậy, và chất lượng lập pháp liệu có đảm bảo hay không.

Trước hết có thể thấy, trên nền tảng kinh tế - xã hội hiện nay, với tiềm lực và dư địa phát triển ngày càng rõ nét, trong bối cảnh kinh tế và địa chính trị thế giới biến động nhanh, phức tạp và khó lường, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm chính trị rất cao khi đặt ra những mục tiêu tăng trưởng GDP đầy thách thức: năm 2025 đạt trên 8%; giai đoạn 2026-2030 phấn đấu trên 10%; và giai đoạn 2030-2045 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, từ 7-7,5%.

Để hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã thống nhất ban hành hàng loạt chủ trương có tính đột phá, mang tầm cải cách sâu rộng. Trọng tâm là tinh gọn bộ máy, tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, kết thúc hoạt động cấp huyện; đồng thời đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Cùng với đó là chủ trương sắp xếp lại đơn vị hành chính, sáp nhập các tỉnh, thành phố từ 63 xuống còn 34, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị quốc gia.

Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành 07 nghị quyết chiến lược về khoa học - công nghệ, kinh tế tư nhân, đối ngoại, cải cách thể chế, y tế, giáo dục và năng lượng. Đây là những trụ cột then chốt, với yêu cầu khẩn trương thể chế hóa và xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, nhằm tạo ra những chính sách đột phá mạnh mẽ, khơi thông nguồn lực, tháo gỡ các điểm nghẽn, mở đường cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.

Bên cạnh những thời cơ và động lực phát triển mới, một trong những điểm nghẽn lớn nhất được xác định là “điểm nghẽn của các điểm nghẽn” đã được nhận diện rõ, đó là những bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn và vướng mắc trong hệ thống pháp luật (như đã chỉ ra tại Nghị quyết số 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới). Thực trạng này đang trở thành rào cản nghiêm trọng, làm suy giảm hiệu quả quản lý, cản trở việc huy động và phát huy các nguồn lực, hạn chế cơ hội phát triển của đất nước.

Trong bối cảnh đó, việc tập trung cao độ để tháo gỡ “điểm nghẽn” mang tính then chốt về thể chế, hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển đã đề ra.

Chính trên tinh thần đó, suốt thời gian qua, Quốc hội đã phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan liên quan, khẩn trương tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều luật, nghị quyết quan trọng, nhằm kịp thời thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thông suốt, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.

Quang cảnh phiên bế mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV

Chia sẻ về điều này, Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng (Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ) cho biết, vì thời gian gấp, các luật và nghị quyết tại Kỳ họp thứ 10 chủ yếu được ban hành theo trình tự rút gọn, sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng vì không có đủ thời gian và quy trình để nghiên cứu, đánh giá tác động một cách thấu đáo, toàn diện. Tuy nhiên để khắc phục vấn đề trên, về nguyên tắc, Quốc hội đã yêu cầu chỉ sửa đổi những nội dung thực sự cần thiết, cấp bách, đã được thực tế chứng minh, đủ chín, đủ rõ để đưa vào các dự án luật. Những nội dung chưa được đánh giá kỹ, chưa đủ chín, đủ rõ sẽ đưa vào các nghị quyết để thực hiện thí điểm trước khi sơ kết, tổng kết để đưa vào luật. 

Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng, Đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ

“Do vậy, mặc dù số lượng luật được sửa đổi khá nhiều, nhưng vì chỉ tập trung những vấn đề cấp bách, cấp thiết, đã được đánh giá kỹ nên nhiều luật nội dung sửa đổi, bổ sung khá ít, có luật chỉ 2-3 nội dung tại 2-3 điều. Nhiều luật chỉ chỉnh sửa về phân cấp, phân quyền, giảm bớt thủ tục hành chính hay phù hợp chính quyền địa phương hai cấp, không sửa các nội hàm liên quan đến chính sách trong dự án luật. Do vậy, về cơ bản, việc sửa đổi, bổ sung nhiều luật lần này vẫn đảm bảo chất lượng của các dự án luật”, Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.

Để có thể hoàn thành được khối lượng công việc rất đồ sộ của Kỳ họp thứ 10, Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn ĐBQH Thành phố Hải Phòng) cũng chia sẻ, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cũng như Chính phủ, các cơ quan trình các dự án luật cũng đã phải làm việc một cách nghiêm túc, khẩn trương và “hết công suất”. “Tôi thấy rằng đây là một kỳ họp có khối lượng công việc rất lớn, thời gian rất dài, nhưng Quốc hội cũng đã hoàn thành xuất sắc toàn bộ nội dung công việc đề ra và chất lượng tôi cho rằng rất tốt. Bởi vì tất cả các nội dung trình đã được Quốc hội xem xét thảo luận một cách kỹ lưỡng, thấu đáo, được cơ quan soạn thảo tiếp thu giải trình một cách cụ thể và các luật các nghị quyết đều được thông qua với số lượng đại biểu tham gia bấm nút đồng ý rất cao. Chính vì vậy, tôi thấy kỳ họp cuối cùng khép lại Quốc hội khóa 15 là một kỳ họp có nhiều điểm đáng nhớ và rất thành công”, Đại biểu Nga cho biết.

Toàn cảnh phiên bế mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV

Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Phó Bí thư Thành ủy Cần Thơ, Trưởng ĐBQH Thành phố Cần Thơ) cũng nhấn mạnh, do khối lượng lập pháp tại Kỳ họp thứ 10 là rất lớn, nên trong nhiều cuộc họp, các phiên thảo luận tại Tổ, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã nhiều lần lưu ý rằng, xây dựng luật là lĩnh vực nhạy cảm, tác động trực tiếp, lâu dài đến quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp; do đó nếu để xảy ra tình trạng cài cắm lợi ích cục bộ, nhóm lợi ích hay tác động không minh bạch thì hậu quả sẽ rất lớn, làm méo mó chính sách, cản trở phát triển và làm suy giảm niềm tin của Nhân dân. Vì vậy, quá trình xây dựng, thẩm tra, chỉnh lý và thông qua luật phải được thực hiện chặt chẽ, công khai, minh bạch, bảo đảm đúng thẩm quyền, đúng quy trình và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết.

“Chủ tịch Quốc hội yêu cầu các cơ quan soạn thảo, thẩm tra, các đại biểu Quốc hội nâng cao trách nhiệm, giữ vững bản lĩnh, không né tránh, không thỏa hiệp với những đề xuất thiếu cơ sở thực tiễn hoặc có dấu hiệu phục vụ lợi ích riêng. Đồng thời, tăng cường giám sát, kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, coi đây là giải pháp căn cơ để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay từ gốc, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật thực sự trong sạch, công bằng và vì sự phát triển bền vững của đất nước”, Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh chia sẻ.

Khơi thông “điểm nghẽn” để kinh tế phát triển bứt phá

Dưới góc độ là thành viên của Ủy ban Kinh tế và Tài chính, Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng cũng chia sẻ, trong kỳ họp này, số lượng các luật, nghị quyết thuộc lĩnh vực thẩm tra của UBKT&TC là khá lớn: 15 luật và 11 nghị quyết. Đây đều là những nội dung phức tạp, chuyên môn sâu, tác động trực tiếp đến hoạt động và cuộc sống của doanh nghiệp, người dân, được dư luận hết sức quan tâm. 

UBKT&TC đã phối hợp hết sức chặt chẽ với cơ quan soạn thảo, làm việc không kể ngày đêm, kể cả ngày nghỉ để tiến hành rà soát, thẩm tra, đánh giá, hoàn thiện các nội dung, bảo đảm các nội dung được đề xuất, xem xét, thông qua có chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và có tính khả thi cao, đặc biệt là không mẫu thuẫn, chồng chéo giữa các dự án luật, nghị quyết. 

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến đầy đủ, toàn diện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, đồng thời lắng nghe một cách cầu thị ý kiến của người dân, doanh nghiệp và cộng đồng, có nhiều nội dung đã được trao đi đổi lại nhiều luận, bàn bạc kỹ lưỡng để đi đến thống nhất phương án có tính khả thi và hài hòa cao nhất.

Đại biểu Hùng nêu ví dụ về Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi), ban đầu Chính phủ đề xuất ngưỡng thu nhập chịu thuế của hộ kinh doanh là mức 200tr/năm, nhưng sau đó, với ý kiến của ĐBQH, cơ quan thẩm tra và người dân, doanh nghiệp, mức này đã được điều chỉnh lên 500tr/năm. 

Quốc hội thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) ngày 10/12. (Ảnh: Vũ Hiếu, Cao Hoàng)

Bên cạnh đó, Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng cũng cho biết, các luật, nghị quyết liên quan đến môi trường kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp, sinh kế của người dân… cũng đã được cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và các cơ quan liên quan nghiên cứu cẩn trọng, rà soát chặt chẽ để bảo đảm các quy định được đơn giản hơn, dễ hiểu, dễ áp dụng, tạo thuận lợi cao nhất cho mọi đối tượng, tăng cường phân cấp phân quyền, giảm mạnh thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển, điển hình như: Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Quản lý thuế; Luật Bảo hiểm tiền gửi; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giá; Luật Đầu tư; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn; Luật Thương mại điện tử; Luật Quản lý nợ công; các nghị quyết về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành luật đất đai, cơ chế chính sách phát triển năng lượng quốc gia, mở rộng phạm vi áp dụng của NQ số 170, hay các nghị quyết về cơ chế chính sách đặc thù cho phát triển của 03 thành phố lớn của đất nước (Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Đà Nẵng)…

“Chúng tôi tin rằng, những nội dung được sửa đổi, bổ sung lần này trong các dự án luật, nghị quyết sẽ bảo đảm tính khả thi cao, phát huy tốt hiệu quả chính sách, là tiền đề quan trọng để kinh tế nước ta phát triển bứt phá trong thời gian tới”, Đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng bày tỏ.

Tạo cơ chế đồng bộ để Việt Nam phát triển kinh tế số, công nghệ cao

Đảng và Nhà nước ta đã xác định, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là lựa chọn, mà là con đường sống còn, là động lực trọng yếu của giai đoạn phát triển mới. 

Tại Kỳ họp thứ 10 này, Quốc hội cũng đã thông qua 5 luật mới/sửa đổi tạo khung pháp lý cho các vấn đề về Trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, công nghệ cao, Chuyển giao công nghệ, Sở hữu trí tuệ… Đây cũng là bước để cụ thể hoá quan điểm chiến lược, tạo chuỗi chính sách đồng bộ hiệu quả cho các vấn đề cốt lõi, vấn đề mới để bắt kịp xu thế thời đại, tạo cơ chế để Việt Nam phát triển kinh tế số, công nghệ cao.

 

Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh, Phó Bí thư Thành ủy Cần Thơ, Trưởng đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ

Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Phó Bí thư Thành ủy Cần Thơ, Trưởng đoàn ĐBQH Thành phố Cần Thơ) chia sẻ, việc Quốc hội thông qua Luật Trí tuệ nhân tạo; Luật Chuyển đổi số; Luật Công nghệ cao (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ không chỉ mang ý nghĩa lập pháp đơn thuần, mà là một quyết định có tính chiến lược, thể hiện tư duy phát triển dài hạn và chủ động của Quốc hội trước những biến đổi sâu sắc của khoa học - công nghệ toàn cầu. Ngoài ra, việc ban hành 5 luật quan trọng này cũng nhằm cụ thể hóa tinh thần đổi mới, đột phá của Nghị quyết 57-NQ/TW về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, cụ thể là gỡ bỏ các rào cản thể chế, tạo đột phá cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao. Đây là lần đầu tiên hệ thống pháp luật nước ta trong lĩnh vực kể trên được hoàn thiện một cách đồng bộ, có tính liên thông cao, nhằm hình thành một khung khổ pháp lý đủ mở, đủ linh hoạt nhưng vẫn bảo đảm quản lý hiệu quả đối với các công nghệ mới, công nghệ nền tảng của nền kinh tế số.

Theo Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh, 5 luật kể trên được Quốc hội thông qua đều đạt tỷ lệ rất cao (đều trên 90%) cho thấy quyết tâm chính trị rất lớn trong việc “đi trước một bước về thể chế”, tạo lập hành lang pháp lý quan trọng để thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và thương mại hóa công nghệ cao, biến tri thức thành tài sản có thể giao dịch, đầu tư; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích đổi mới sáng tạo; đồng thời tháo gỡ các rào cản trong chuyển giao công nghệ, ưu tiên chuyển giao công nghệ cao, công nghệ chiến lược, thu hút nguồn lực xã hội và quốc tế, đưa phát triển trí tuệ nhân tạo trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.

Quan trọng hơn, việc Quốc hội kịp thời ban hành các quy định pháp luật liên quan đến trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số đã thể hiện rõ vai trò kiến tạo phát triển của Quốc hội. 

Trí tuệ nhân tạo là lĩnh vực mới, phát triển với tốc độ vượt bậc, tạo ra những tác động sâu rộng và đa chiều đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh cũng như công tác quản trị quốc gia. Việc sớm ban hành luật được xem là yêu cầu cấp thiết nhằm thiết lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ, giúp chủ động nắm bắt cơ hội, đồng thời kiểm soát và giảm thiểu các rủi ro AI phát sinh. 

Theo đó, nội dung quan trọng của luật Trí tuệ nhân tạo là định hướng quản lý theo 3 mức độ rủi ro. Các hệ thống AI được phân loại theo mức độ tác động và nguy cơ, từ đó gắn với nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Những ứng dụng có nguy cơ cao đối với quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực: tài chính, y tế, tư pháp, lao động, giáo dục… sẽ phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe hơn về dữ liệu, kiểm định, giám sát và cơ chế can thiệp của con người.

Xây dựng môi trường pháp lý đủ tầm quốc tế tạo an tâm cho các nhà đầu tư

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội cũng đã thông qua Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm Tài chính quốc tế. Luật quy định rõ việc thành lập Tòa án chuyên biệt đặt tại TP. Hồ Chí Minh. Điều này có ý nghĩa chiến lược đặc biệt cả về thể chế pháp lý lẫn năng lực cạnh tranh quốc gia. 

Khi Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đi vào hoạt động thì bắt buộc phải có một thiết chế Tòa án chuyên biệt tương ứng để bảo đảm môi trường pháp lý hiện đại, minh bạch, phù hợp thông lệ quốc tế. Việc luật hóa mô hình này cho thấy Việt Nam chủ động hội nhập sâu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, từng bước nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị tài chính toàn cầu.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng 

Về bản chất của toà án chuyên biệt, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng chia sẻ, thực chất là Tòa án Thương mại Quốc tế, tương tự mô hình của Singapore, London hay Dubai, được thành lập gắn với Trung tâm Tài chính Quốc tế. Theo Nghị quyết 222 của Quốc hội, Trung tâm này có hai cơ chế giải quyết tranh chấp: Tòa án chuyên biệt và Trung tâm Trọng tài Quốc tế. Đây chính là hai thiết chế pháp lý mà nhà đầu tư quan tâm nhất khi xem xét rủi ro và an toàn pháp lý. Khi kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài đến, điều họ thường quan tâm đầu tiên là hệ thống pháp lý có liên quan, trong đó có thiết chế giải quyết tranh chấp. Do đó việc ban hành Luật này với các quy tắc tố tụng, cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội so với pháp luật hiện hành để có thể thu hút được các nhà đầu tư quốc tế là điều rất cần thiết.

“Điều này không chỉ củng cố niềm tin của nhà đầu tư, các định chế tài chính trong và ngoài nước vào tính chuyên nghiệp, công bằng, công minh, khách quan và khả năng thi hành án quốc tế cao của phán quyết; mà còn cho thấy tư duy đột phá trong xây dựng pháp luật, tiệm cận các chuẩn mực tư pháp quốc tế. Chúng ta phải tạo môi trường pháp lý mang tính cạnh tranh quốc tế để người ta chọn Việt Nam làm nơi xử lý tranh chấp thì mới thành công”, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nhấn mạnh.

Do đó việc Quốc hội thông qua Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm Tài chính quốc tế có ý nghĩa như một “bệ đỡ pháp lý” quan trọng, không chỉ giải quyết yêu cầu trước mắt, mà còn thể hiện tư duy cải cách thể chế đi trước một bước, lấy pháp luật làm công cụ then chốt để thu hút nguồn lực quốc tế, giúp Việt Nam nâng cao uy tín pháp lý, củng cố niềm tin thị trường và tạo nền tảng vững chắc, thúc đẩy phát triển Trung tâm Tài chính quốc tế theo hướng bền vững, để Việt Nam tham gia sâu hơn vào hệ sinh thái tài chính toàn cầu.

Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo ngày 10/12

Quyết tâm thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã thông qua 3 luật về lĩnh vực giáo dục, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi); Luật Giáo dục đại học (sửa đổi). Cùng với đó, Quốc hội cũng thông qua nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. Các luật, nghị quyết sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.

Việc thông qua các luật, nghị quyết trong lĩnh vực giáo dục tại kỳ họp thể hiện quyết tâm chính trị cao trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Các quy định mới đã tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn kéo dài, nhất là về cơ chế tài chính, tự chủ cơ sở giáo dục; tạo khung pháp lý thống nhất, liên thông giữa các cấp học, bậc học và loại hình đào tạo, khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ trước đây; tập trung hiện đại hóa cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đội ngũ, mở rộng dư địa cho đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong giáo dục và bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục... Đây là bước tiến quan trọng để giáo dục phát triển bền vững, tiệm cận chuẩn mực quốc tế nhưng vẫn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Đặc biệt, việc nhấn mạnh chất lượng đào tạo, năng lực người học và gắn kết với nhu cầu thị trường lao động được xem là hướng đi đúng và cần thiết. 

Việc Quốc hội thông qua các luật, nghị quyết trong lĩnh vực giáo dục được đánh giá là bước đi quan trọng, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho cải cách giáo dục trong giai đoạn mới. Đây không chỉ là đáp ứng yêu cầu trước mắt, mà còn thể hiện tầm nhìn dài hạn trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đầu tư cho con người, đầu tư cho tri thức và sự phát triển bền vững của đất nước.

Mở ra cơ hội lớn để các địa phương phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, lan toả động lực phát triển cho cả nước

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội cũng đã thông qua rất nhiều nghị quyết quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của các địa phương cụ thể mà còn thúc đẩy sự phát triển của cả nước. Theo đó phải kể tới các nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù cho Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh (sửa đổi Nghị quyết 98) và Đà Nẵng (sửa đổi Nghị quyết 136); cơ chế đặc thù cho đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; chủ trương đầu tư Cảng hàng không quốc tế Gia Bình; đường bộ cao tốc Vinh - Thanh Thủy và điều chỉnh chủ trương đầu tư Cảng hàng không quốc tế Long Thành; Cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030; Sửa đổi Nghị quyết 170/2024/QH15 để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án, đất đai trên phạm vi cả nước…

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, Đoàn ĐBQH Thành phố Hải Phòng. (Ảnh: Phạm Thắng)

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng) chia sẻ, tại Kỳ họp thứ 8 và Kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã xem xét Luật Thủ đô và các cơ chế, chính sách đặc thù dành cho Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đến Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội tiếp tục đặt vấn đề xem xét, hoàn thiện các cơ chế đặc thù đối với cả Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này khiến một số cử tri băn khoăn, đặt câu hỏi vì sao các quy định về cơ chế đặc thù lại được điều chỉnh liên tiếp trong thời gian ngắn.

Lý giải cho điều này, theo đại biểu, thực tiễn đối với Thành phố Hồ Chí Minh, kể từ ngày 1/5/2025, cùng với việc thực hiện sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, không gian phát triển, quy mô và tầm vóc của thành phố đã thay đổi căn bản. Từ một đô thị có quy mô nhỏ hơn trước đây, Thành phố Hồ Chí Minh sau sáp nhập với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương đã trở thành một cực tăng trưởng lớn, với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và địa lý đa dạng, phức tạp hơn rất nhiều. “Trong bối cảnh đó, những cơ chế, chính sách đặc thù được thiết kế cho Thành phố Hồ Chí Minh trước sáp nhập rõ ràng không còn phù hợp, thậm chí trở nên chật hẹp so với diện mạo và yêu cầu phát triển mới. “Các cơ chế đặc thù cũ giống như một tấm áo đã quá chật đối với một thành phố có không gian, quy mô và vai trò khác”. Vì vậy, việc rà soát, điều chỉnh và bổ sung các chính sách đặc thù là yêu cầu tất yếu nhằm tạo điều kiện để Thành phố Hồ Chí Minh phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh trong giai đoạn phát triển mới. “Cách tiếp cận này hoàn toàn thống nhất với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước khi thực hiện sáp nhập các đơn vị hành chính, đó là bảo đảm các địa phương sau sáp nhập có đủ cơ chế, động lực để phát triển mạnh mẽ và bền vững”, Đại biểu Nga nhận định.

Đối với Thủ đô Hà Nội, theo đại biểu Nga, mặc dù không chịu tác động trực tiếp của việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh trong giai đoạn này, song đây cũng là địa phương đang đứng trước nhiều yêu cầu phát triển mới, với hàng loạt chương trình, dự án và không gian tăng trưởng mới. Là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm văn hóa, kinh tế lớn của cả nước, nơi tập trung hầu hết các cơ quan Trung ương, Hà Nội cần có những cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp, bổ trợ cho Luật Thủ đô, để đáp ứng vai trò, vị thế và yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai.

Đại biểu Trương Xuân Cừ (Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội) chia sẻ, Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm triển khai các dự án lớn, trọng điểm trên địa bàn Thủ đô cho phép Hà Nội quyết định mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có thể gấp đôi quy định hiện hành đối với các dự án cần triển khai ngay. Cơ chế này được kỳ vọng giải quyết dứt điểm điểm nghẽn giải phóng mặt bằng - yếu tố thường xuyên làm chậm tiến độ dự án. Đây chính là hành lang pháp lý mới để Hà Nội tháo gỡ các điểm nghẽn kéo dài về đầu tư, giải phóng mặt bằng, quy hoạch và huy động nguồn lực.

Đại biểu Trương Xuân Cừ, Đoàn ĐBQH Thành phố Hà Nội

Ngoài Thủ đô Hà Nội, Quốc hội còn xem xét, thông qua nhiều cơ chế, chính sách đặc thù nhằm triển khai các dự án trọng điểm quốc gia, điển hình như các dự án đường sắt cao tốc và những công trình hạ tầng chiến lược khác. Thực tiễn cho thấy, nếu không áp dụng các cơ chế đặc thù phù hợp, quá trình triển khai những dự án này sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc, xuất phát từ cả yêu cầu thực tiễn lẫn những bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành.

Theo Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, nhiều quy định pháp luật chưa theo kịp tốc độ phát triển và tính chất đặc thù của các công trình quy mô lớn, phức tạp, xuyên vùng, xuyên ngành. Nếu chờ sửa đổi, bổ sung đầy đủ các luật liên quan, chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian, kéo theo nguy cơ chậm tiến độ dự án. “Mỗi sự chậm trễ như vậy đồng nghĩa với việc bỏ lỡ cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, làm giảm hiệu quả đầu tư, thậm chí gây lãng phí nguồn lực”. 

Nhấn mạnh như vậy, đại biểu khẳng định, việc Quốc hội ban hành các nghị quyết với cơ chế, chính sách đặc thù là giải pháp cần thiết nhằm tháo gỡ kịp thời những “điểm nghẽn” chưa được quy định hoặc chưa được xử lý thỏa đáng trong pháp luật hiện hành. Khi các dự án trọng điểm này được triển khai và đưa vào khai thác đúng tiến độ, chúng sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế - xã hội, lan tỏa trên phạm vi cả nước. “Tôi kỳ vọng rằng, ngay sau khi các nghị quyết của Quốc hội có hiệu lực, các cơ quan chức năng và đơn vị liên quan sẽ khẩn trương tổ chức thực hiện, triển khai đồng bộ và quyết liệt để tháo gỡ ngay những vướng mắc theo đúng tiến độ đã đề ra. Chỉ khi khâu tổ chức thực hiện được đẩy nhanh và hiệu quả, thì ý nghĩa của cơ chế đặc thù và giá trị của các nghị quyết mới được phát huy đầy đủ, tránh tình trạng “thể chế đã thông, nhưng triển khai vẫn chậm”, Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga bày tỏ.

Cùng với công tác lập pháp, giám sát, Quốc hội đã xem xét, quyết định nhiều vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng khác. Đặc biệt, kỳ họp này, Quốc hội đã tổng kết sâu sắc, toàn diện công tác nhiệm kỳ 2021 - 2026 của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; xem xét, quyết định công tác nhân sự đảm bảo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời, thảo luận kỹ lưỡng các dự thảo Văn kiện trình Đại hội lần thứ 14 của Đảng, đóng góp trí tuệ, tâm huyết, hiến kế cho sự phát triển của đất nước hướng đến mục tiêu năm 2030, khi Đảng ta tròn 100 năm thành lập trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại phiên bế mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV. (Ảnh Vũ Hiếu - Cao Hoàng)

Kỳ họp thứ 10 - Kỳ họp cuối cùng của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đã khép lại với những dấu ấn đặc biệt, không chỉ bởi khối lượng công việc đồ sộ hay những con số kỷ lục về lập pháp, mà quan trọng hơn là ở chất lượng quyết sách, tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của Quốc hội trước những yêu cầu phát triển mới của đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực biến động nhanh, phức tạp, yêu cầu cải cách thể chế đặt ra ngày càng cấp bách, Quốc hội đã thể hiện rõ vai trò là trung tâm của quyền lực nhà nước, là thiết chế dân chủ đại diện cao nhất của Nhân dân, chủ động “đi trước một bước” về thể chế để mở đường cho phát triển. Quan trọng hơn, Kỳ họp đã khẳng định rõ tinh thần đổi mới tư duy lập pháp, đề cao kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống lợi ích nhóm, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Thành công của Kỳ họp thứ 10 cho thấy một Quốc hội “nỗ lực vượt bậc, thích ứng linh hoạt, hành động quyết liệt và kiến tạo phát triển”, để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Kể từ khi ra đời cho tới nay, Quốc hội các khoá dù mỗi nhiệm kỳ lại có một sứ mệnh khác nhau nhưng tựu trung luôn là một thiết chế dân chủ, đại diện, để thông qua đó Nhân dân thực hiện ủy thác quyền lực của mình; là nơi tiếng nói của người dân được lắng nghe, là nơi các quyết sách quan trọng được quyết định không có mục tiêu gì khác ngoài lợi ích quốc gia, dân tộc, để cuộc sống của người dân ngày một ấm no, hạnh phúc.

Thành công của Kỳ họp thứ 10 không chỉ là kết quả của một kỳ họp, mà còn là minh chứng sinh động cho vai trò, uy tín và vị thế ngày càng cao của Quốc hội, xứng đáng với niềm tin, sự ủy thác của cử tri và Nhân dân cả nước, đồng thời mở ra tiền đề vững chắc cho Quốc hội khóa XVI tiếp tục kế thừa, đổi mới và phát triển mạnh mẽ hơn trong chặng đường phía trước.


Dương Dung / quochoi.vn
Bình luận

Các tin khác

Tin đọc nhiều