Tháo gỡ “điểm nghẽn” trong hạ tầng số
ĐBP - Mặc dù đã có bước tiến trong mở rộng mạng viễn thông, triển khai dịch vụ công trực tuyến và ứng dụng công nghệ vào quản lý, song hạ tầng số vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều vùng lõm sóng, năng lực kết nối và khai thác dữ liệu hạn chế. Đây là “điểm nghẽn” trong chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Trước yêu cầu phát triển mới, Điện Biên xác định việc hoàn thiện hạ tầng số là nhiệm vụ ưu tiên nhằm tạo nền tảng cho kinh tế số, chính quyền số và xã hội số phát triển bền vững.
Hạ tầng số được xác định là nền tảng then chốt, quyết định đến phát triển kinh tế số, xã hội số và chính quyền số. Hiện nay, tỉnh Điện Biên có 5 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông. Tỉnh chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông trên địa bàn tăng cường đầu tư, mở rộng vùng phủ sóng, kết nối hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Đến nay hệ thống cáp quang băng rộng được đầu tư mở rộng mạnh mẽ, mạng thông tin di động không ngừng được nâng cấp, từng bước tạo nền tảng cho việc cung cấp dịch vụ số đến người dân và doanh nghiệp.
Toàn tỉnh có số lượng trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS) là 1.125, trung bình mỗi năm phát triển mới khoảng 60 trạm. Trong đó có 1.087 trạm 4G, 44 trạm 5G, tạo nền tảng quan trọng cho việc triển khai các dịch vụ số tiên tiến. Tổng số thuê bao điện thoại di động ước đạt gần 500.000 thuê bao, đạt 78 thuê bao di động/100 dân. Hạ tầng truyền dẫn cáp quang đã được triển khai đến 100% trung tâm xã, phường; tỷ lệ hộ gia đình có đường Internet cáp quang băng rộng ước đạt trên 60%, tăng mạnh so với mức 36% năm 2021. Cùng với đó, tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại thông minh đạt khoảng 75%, phản ánh mức độ tiếp cận công nghệ số ngày càng rộng rãi, tạo tiền đề quan trọng để triển khai các dịch vụ công trực tuyến, thương mại điện tử, giáo dục và y tế số.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức đặt ra cho phát triển hạ tầng số của tỉnh. Trước hết, địa hình đồi núi chia cắt mạnh, dân cư phân tán, nhiều thôn, bản nằm xa trung tâm khiến chi phí đầu tư hạ tầng viễn thông rất lớn, trong khi hiệu quả kinh doanh thấp. Không ít khu vực vùng sâu, vùng cao, vùng biên giới vẫn rơi vào tình trạng “lõm sóng”, chất lượng kết nối chưa ổn định, đặc biệt vào mùa mưa lũ, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp cận dịch vụ số của người dân. Dù cáp quang đã đến trung tâm xã, song từ trung tâm xã đến thôn, bản, nhất là các bản vùng cao, việc kéo cáp, lắp đặt thiết bị gặp nhiều trở ngại về địa hình, quỹ đất và nguồn lực đầu tư. Hạ tầng dùng chung chưa được khai thác hiệu quả, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún, chưa tạo được sức bật mạnh mẽ cho chuyển đổi số toàn diện.
Hiện nay toàn tỉnh mới có gần 94% hộ dân được sử dụng điện, trong đó khu vực nông thôn đạt gần 93%. Hạn chế này trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng đầu tư, vận hành ổn định các công trình hạ tầng viễn thông. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực số, nhất là đội ngũ công nghệ thông tin chất lượng cao, còn thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu. Ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kỹ năng số của người dân chưa đồng đều, thói quen sử dụng các dịch vụ truyền thống vẫn chiếm ưu thế, khiến mức độ khai thác, sử dụng các tiện ích số chưa tương xứng với quy mô đầu tư hạ tầng. Đây chính là “nút thắt” lớn, làm giảm hiệu quả phủ sóng và chất lượng dịch vụ viễn thông tại một số địa bàn.
Đơn cử, tại xã Chiềng Sinh hiện nay vẫn còn 2 bản là Huổi Nôm và Hua Sát chưa có điện lưới quốc gia. Điều này khiến việc đầu tư hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin tại địa bàn gặp khó khăn. Do không có điện lưới ổn định, các doanh nghiệp viễn thông khó triển khai trạm thu phát sóng.
Theo ông Đỗ Văn Sơn, Chủ tịch UBND xã Chiềng Sinh, không có điện người dân tại các bản trên gặp hạn chế trong việc sử dụng điện thoại thông minh, truy cập Internet, tiếp cận dịch vụ công trực tuyến hay các nền tảng số phục vụ sản xuất, tiêu thụ nông sản. Đặc biệt, trong công việc của chính quyền cũng gặp nhiều khó khăn.
Theo thống kê, tỷ lệ hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ đến khu vực dân cư như thôn, bản, tổ dân phố hiện mới đạt khoảng 88,5%. Tương tự, tỷ lệ phủ sóng thông tin di động 3G, 4G, 5G tại khu vực dân cư đạt khoảng 98%, nhưng vẫn còn những “vùng lõm” sóng tồn tại nhiều năm, chủ yếu tập trung ở các bản vùng cao, biên giới, nơi địa hình hiểm trở và mật độ dân cư thấp. Đối với doanh nghiệp viễn thông, chi phí đầu tư lớn nhưng khả năng thu hồi vốn chậm khiến việc mở rộng hạ tầng tại các khu vực này gặp nhiều rào cản.
Từ thực tiễn đó cho thấy, “điểm nghẽn” trong phát triển hạ tầng số của Điện Biên không chỉ nằm ở bài toán kỹ thuật hay vốn đầu tư, mà còn gắn chặt với hạ tầng thiết yếu như điện lưới, giao thông và trình độ, kỹ năng số của người dân. Nếu không đồng thời tháo gỡ những nút thắt này, việc mở rộng vùng phủ sóng, nâng cao chất lượng dịch vụ viễn thông và thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện sẽ khó đạt được mục tiêu như kỳ vọng, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Nhận diện rõ những hạn chế, Điện Biên tập trung tháo gỡ theo hướng linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế. Thay vì chỉ trông chờ vào nguồn lực doanh nghiệp, tỉnh tăng cường vai trò điều phối, tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành, địa phương với doanh nghiệp viễn thông để rà soát, xác định chính xác các khu vực chưa được phủ sóng hoặc chất lượng dịch vụ chưa đảm bảo. Trên cơ sở đó, ưu tiên đầu tư theo lộ trình, tránh dàn trải, tập trung giải quyết dứt điểm từng “điểm lõm”. Đồng thời, lồng ghép đầu tư hạ tầng số với các chương trình, dự án phát triển hạ tầng khác. Khi điện lưới được kéo đến đâu, hạ tầng viễn thông được tính toán triển khai song hành đến đó, nhằm tối ưu hóa nguồn lực, giảm chi phí đầu tư.
Khuyến khích doanh nghiệp viễn thông ứng dụng các giải pháp công nghệ phù hợp với địa hình miền núi như sử dụng trạm phát sóng công suất nhỏ, trạm thu phát sóng dùng năng lượng mặt trời tại những nơi chưa có điện lưới ổn định. Song song với đầu tư hạ tầng kỹ thuật, Điện Biên xác định nâng cao năng lực khai thác, sử dụng hạ tầng số là giải pháp căn cơ, lâu dài. Tỉnh chú trọng đào tạo, bồi dưỡng năng lực công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là ở cấp cơ sở; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, phổ cập kỹ năng số cho người dân vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thông qua các tổ công nghệ số cộng đồng, hướng dẫn người dân sử dụng điện thoại thông minh, truy cập Internet an toàn, thực hiện dịch vụ công trực tuyến, thanh toán không dùng tiền mặt và quảng bá, tiêu thụ sản phẩm trên các nền tảng số.
Khi hạ tầng số được hoàn thiện và vận hành hiệu quả, đó không chỉ là nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số mà còn là “cầu nối” đưa tri thức, cơ hội và dịch vụ hiện đại đến với vùng cao, biên giới, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững trong giai đoạn mới.



