Đối ngoại quốc phòng Việt Nam - Thành tựu và tư duy chiến lược thời kỳ mới

Thứ ba, 21/03/2023 11:29
(ĐCSVN) – Trong những năm đổi mới, đối ngoại quốc phòng (ĐNQP) đã giành được nhiều thành tựu to lớn, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao thực lực, uy tín và vị thế quốc gia và quân đội trên trường quốc tế. Trước bối cảnh quốc tế đang thay đổi nhanh chóng, khó lường, ĐNQP không chỉ kế thừa, phát huy những thành tựu đạt được mà cần có tư duy chiến lược mới, phục vụ đắc lực sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thành tựu nổi bật

Những thập niên qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã kiên trì đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước vạch ra, lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện đồng bộ, toàn diện công tác hội nhập quốc tế (HNQT) và ĐNQP, đạt được nhiều thành tựu nổi bật.

Về tổng thể: ĐNQP đã tích cực và chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết tốt các vấn đề chiến lược liên quan đến quân sự, quốc phòng, an ninh, biên giới lãnh thổ, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; đã xử lý tốt quan hệ quốc phòng với các nước, nhất là với các nước láng giềng, nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tạo nên thế đan xen chiến lược, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; đã củng cố tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng, góp phần tăng cường tiềm lực, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố lòng tin chiến lược giữa Việt Nam với các nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và quân đội trên trường quốc tế.

 Thiếu tướng Hoàng Kim Phụng - Cục trưởng Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam chụp ảnh cùng các nữ quân nhân của Đội Công binh số 1 trong lễ xuất quân được tổ chức ngày 27/4/2022 (Ảnh: Kiều Giang)

Trên bình diện song phương: ĐNQP đã tạo điều kiện cho Quân đội nhân dân Việt Nam thiết lập quan hệ quốc phòng (QHQP) với quân đội hơn 100 nước, trong đó có 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc[1], 3 tổ chức vũ trang quốc tế của Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức Thủy đạc quốc tế (IHO). Về cơ bản đã thiết lập QHQP với tất cả các đối tác chủ chốt của Việt Nam, gồm: Đối tác hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện là Lào, Campuchia, Cu-ba; đối tác chiến lược toàn diện là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ; và các đối tác chiến lược, hợp tác toàn diện... Đến nay, đã có 31 nước đặt Phòng Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Việt Nam và 20 nước kiêm nhiệm; Việt Nam đặt Phòng Tùy viên Quốc phòng tại 32 nước, Liên hợp quốc và EU.

Trên bình diện đa phương: Hội nhập quốc tế về quốc phòng của Việt Nam ngày càng sâu rộng. Bộ Quốc phòng đã tham gia chủ động, tích cực vào hầu hết các cơ chế, diễn đàn quốc tế, khu vực, như: Cơ chế hợp tác quốc phòng quân sự khuôn khổ ASEAN, ASEAN và các đối tác, nổi lên là ADMM và ADMM+; hợp tác quốc phòng, an ninh với EU được thúc đẩy nhiều mặt, đã ký kết Hiệp định khung giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam với EU về tham gia hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (2019); đã cử lực lượng gìn giữ hòa bình (GGHB) tham gia các hoạt động GGHB của Liên hợp quốc tại châu Phi, với hàng trăm lượt sĩ quan, cán bộ, nhân viên y tế trong đội hình Bệnh viện dã chiến cấp 2 tại phái bộ Nam Sudan; và kỹ sư, chuyên gia máy, thợ xây trong Đội công binh số 1 tham gia phái bộ UNISFA, Abyei[2]. Mới đây là cử 76 quân nhân tham gia cứu hộ, cứu nạn sau thảm họa động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Hội nhập quốc tế về quốc phòng và ĐNQP Việt Nam đã liên tục mở rộng, phát triển cả bề rộng và chiều sâu, trên nhiều bình diện; cơ chế hợp tác ngày càng thực chất và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực như: trao đổi đoàn, ngoại giao biên giới, trao đổi học thuật, đào tạo, hợp tác tình báo, hợp tác công nghiệp quốc phòng, hội thi, hội thao quân sự; phòng, chống và khắc phục hậu quả chiến tranh, thảm họa của an ninh phi truyền thống, biến đổi môi trường, thiên tai; tham gia lực lượng GGHB, hợp tác quân - binh chủng, ký kết các điều ước, thỏa thuận hợp tác quốc phòng… với các đối tác song phương và đa phương.

Những hoạt động HNQT về quốc phòng và tăng cường ĐNQP của Việt Nam được các đối tác quốc phòng, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, đồng tình, ủng hộ, khẳng định vị thế, uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, Việt Nam nói chung trên trường quốc tế. Đặc biệt, những thành tựu đó đã khẳng định, ĐNQP đã góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; là một bộ phận quan trọng của đối ngoại quốc gia, một trụ cột quan trọng của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, góp phần quan trọng vào việc xây dựng lòng tin giữa Việt Nam và các nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước ngay cả trong những giai đoạn đầy khó khăn và thách thức.

Bối cảnh chiến lược mới

Những thập niên tới, hòa bình, hợp tác, phát triển là xu thế lớn; tuy nhiên, cục diện biến động chưa từng có với nhiều nhân tố bất ổn, không xác định gia tăng. Các nước lớn cạnh tranh gay gắt, hợp tác và đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, lôi kéo, áp đặt các nước chọn bên. EU khủng hoảng toàn diện, đối diện với nguy cơ chia rẽ sâu sắc. Chiến tranh toàn diện giữa Nga với Phương Tây, NATO tại Ukraina có thể gây nên chiến tranh thế giới. Các hình thức tập hợp lực lượng diễn ra nhanh chóng. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố, thách thức an ninh phi truyền thống sẽ phức tạp hơn. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu sẽ trầm trọng hơn, các thảm họa nhân đạo diễn ra ở nhiều nơi.

Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á tiếp tục trở thành khu vực phát triển nhất, là động lực tăng trưởng của thế giới; là nơi cạnh tranh quyết liệt, thể hiện sự thành bại chiến lược của các nước lớn. Trung Quốc và Mỹ sẽ lôi kéo, ép buộc nhiều nước khu vực phải chọn bên. Tranh chấp chủ quyền, xung đột ở eo biển Đài Loan sẽ làm đảo lộn trật tự, an ninh khu vực, Biển Đông, gây hậu quả khôn lường; Mỹ và các đồng minh Đông Bắc Á, NATO, AUKUS… sẽ can thiệp quân sự vào khu vực. Cộng đồng ASEAN sẽ khẳng định vai trò trung tâm duy trì hòa bình, thống nhất nội khối và khu vực, song sẽ bị lôi kéo, chia rẽ bởi lôi kéo của các nước lớn, các lợi ích khác nhau.

Với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đã lớn mạnh, Việt Nam sẽ tận dụng thời cơ, thuận lợi để tăng tốc, là nước có tốc độ phát triển cao nhất trong khu vực; nhưng các nguy cơ, thách thức sẽ bộc lộ sâu sắc, khó lường hơn. Nền kinh tế còn nhiều yếu kém, phát triển chưa bền vững sẽ xuất hiện những thách thức về quản trị tài chính, ngân hàng, doanh nghiệp. Tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trở thành nguy cơ hàng đầu đe dọa sự lãnh đạo của Đảng, tồn tại của chế độ. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá, nhất là về chính trị, tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Tranh chấp biển, đảo trở nên quyết liệt, phức tạp hơn. Những khác biệt về lợi ích, quyền chủ quyền và ứng xử trên thực địa có thể dẫn tới xung đột với các nước láng giềng.

Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết và là những thách thức lớn đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Quân đội sẽ đẩy nhanh thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo sự điều chỉnh, bổ sung Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội đòi hỏi sự tuân thủ ngày càng cao.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư và sự sẵn sàng cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc có sử dụng vũ khí công nghệ cao trong tương lai đặt ra yêu cầu cao trong xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp của quân đội ngày càng nặng nề. Cùng với xây dựng tiềm lực quân sự, quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trên cơ sở xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, xây dựng “thế trận lòng dân”, quân đội sẽ tiếp tục điều chỉnh tổ chức, cơ cấu lại lực lượng theo hướng tinh, gọn mạnh, cơ động, có sức chiến đấu cao. Nghiên cứu dự báo chiến lược quốc phòng sẽ được đề cao.

Quân đội sẽ tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, chính sách ngoại giao của Nhà nước, các định hướng, nhiệm vụ đối ngoại của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, như Nghị quyết số 22-NQ/TW về Hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, và Nghị quyết Đại hội XIII, trong bối cảnh các cơ chế hợp tác quốc tế, khu vực có sự thay đổi mới, các đối tác có nhu cầu cao về quan hệ, đưa các quan hệ đối ngoại quân sự vào chiều sâu, thực chất; trong khi trình độ quản lý và năng lực của cán bộ đối ngoại quốc phòng còn có những hạn chế, bất cập.

Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia tìm kiếm nạn nhân thảm hoạ động đất tại tỉnh Hatay, Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 14/2/2023 (Ảnh: Văn Hiếu)

Cần tư duy chiến lược mới

Nhận biết được bối cảnh chiến lược mới trên đây cũng góp phần nâng cao tư duy chiến lược ĐNQP. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản cần có là xác định đúng đắn mục tiêu, quan điểm và phương châm chỉ đạo đối với ĐNQP. Theo đó, cần có những tư duy mới về chiến lược ĐNQP như sau:

Với mục tiêu chiến lược: Nguyên tắc xác định đường lối đối ngoại là phải tuân theo, hướng đến thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ của đường lối đối nội. Theo đó, bên cạnh việc quán triệt sâu sắc những mục tiêu chiến lược về bảo vệ Tổ quốc mà Nghị quyết Đại hội XIII và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đề ra, ĐNQP phải xác định một cách tổng hợp và hài hòa giữa mục tiêu của quốc gia và mục tiêu của ĐNQP; đặt mục tiêu, lợi ích của quốc gia lên trước mục tiêu, lợi ích của quốc phòng.

Trước bối cảnh mới, mục tiêu của ĐNQP Việt Nam nên là: Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN); bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; ngăn ngừa chiến tranh, xung đột; bảo vệ môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước bền vững; nâng cao tiềm lực, vị thế, vai trò của quốc gia và quốc phòng Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc xác định các thành tố chủ yếu và thứ tự của các thành tố trên đây thể hiện sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất với các quan điểm của Đảng, Nhà nước đã xác định về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ở đó, vừa quán triệt được những mục tiêu trên phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội của Tổ quốc Việt Nam XHCN phải bảo vệ, vừa thể hiện rõ mục tiêu chung của Tổ quốc và mục tiêu riêng của đối ngoại quốc phòng. Khi xác định được những mục tiêu bảo vệ mang tính chất sống còn của Tổ quốc lên trước hết, thì lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích ngành, lĩnh vực mới còn và mới trở nên có ý nghĩa.

Với mục tiêu cụ thể: Mỗi thời kỳ lịch sử sẽ quy định việc xác lập mục tiêu cụ thể cần đạt được của ĐNQP. Trong thời kỳ mới, ĐNQP bên cạnh cần xác định chính xác mục tiêu cụ thể về chính trị, nâng tầm đối ngoại, kết hợp được ĐNQP với mọi lĩnh vực khác, thu hút được nguồn lực bên ngoài, phát huy được hiệu quả thông tin đối ngoại, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh, cán bộ đủ phẩm chất chính trị, có trình độ, năng lực cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế… ĐNQP cần xác lập những mục tiêu cụ thể về hợp tác quốc phòng, nhất là hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, làm chủ, tiếp nhận, chuyển giao khoa học - cộng nghệ quân sự quốc phòng hiện đại, đáp ứng yêu cầu cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc có sử dụng vũ khí công nghệ cao trong tương lai. Coi đây là một mục tiêu, một hướng đích xác định hiệu quả của ĐNQP thời kỳ mới. Thực tiễn cuộc chiến tranh giữa Nga và NATO trên chiến trường Ukraina cho thấy, bên cạnh vũ khí chính trị, tinh thần, vũ khí công nghệ cao là nhân tố quan trọng thay đổi cục diện, thế - lực trên chiến trường. Việt Nam luôn coi trọng nhân tố chính trị, tinh thần, nhưng trong tương lai, xét ở những thời điểm cụ thể, vũ khí công nghệ cao có vai trò rất quan trọng.

Về quan điểm: Bên cạnh việc quán triệt, tuân thủ và triển khai thực hiện tốt các quan điểm mang tính nguyên tắc cơ bản mà Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương đã xác lập cho đối ngoại nói chung và ĐNQP nói riêng, như: Đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương; quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng, chính sách ngoại giao của Nhà nước, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nhất là kiên định chính sách quốc phòng: “Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đồng thời tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp”[3]. Đồng thời, cùng với tuân thủ và vận dụng sáng tạo các cam kết quốc tế và luật pháp Việt Nam; phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại quốc gia, ĐNQP cần xác lập quan điểm: Chủ động, linh hoạt, sáng tạo tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động đối ngoại.

Đây là một tư duy, quan niệm mới về quan điểm của ĐNQP Việt Nam dựa trên cơ sở cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế của đất nước ta đã có được, lớn mạnh không ngừng trong công cuộc đổi mới vừa qua, cũng như thực lực ở hiện tại và những dự báo về sức mạnh Việt Nam sẽ tăng lên ở tương lai. Hơn nữa, quan điểm này còn thể hiện bên cạnh việc tuân thủ những quan điểm nguyên tắc cơ bản, việc xác lập, nắm vững và đề cao tinh thần chủ động của mỗi ngành, lĩnh vực trong hoạt động nói chung, trong đối ngoại nói riêng là nhân tố cực kỳ quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của quốc gia và ngành, lĩnh vực đã định ra trong thời kỳ mới.

Về phương châm: Từ trước đến nay, ĐNQP đã thực hành và vận dụng đúng đắn và thành công nhiều phương châm hoạt động của mình, đem lại những thành tựu quan trọng cho quốc phòng Việt Nam và quốc gia. Ví như các phương châm: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” - kiên định về nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, phương pháp; “độc lập, tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp”; “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, vừa qua là nêu cao và thực hành tư tưởng ngoại giao theo phương châm “Ngoại giao cây tre Việt Nam”… Tuy nhiên, trước bối cảnh mới, nhất là thực lực, uy tín và vị thế quốc tế mới của Việt Nam, cùng hệ thống mục tiêu, quan điểm mới đòi hỏi phải có phương châm chỉ đạo hành động mới cho ĐNQP Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, bên cạnh kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo những phương châm căn bản đã có, ĐNQP cần có phương châm mới, ví như: “coi trọng thiết thực, hiệu quả trong hợp tác”, “lọc chọn đối tác, ưu tiên hợp tác, mạnh dạn đấu tranh ngăn ngừa, giảm thiểu mặt đối tượng”… Có lẽ đây là những phương châm chỉ đạo rất thiết thực nhằm tận dụng thời cơ, lợi thế mà Việt Nam và quốc phòng Việt Nam đang có được để đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong thời gian tới; đồng thời, hóa giải các nguy cơ, sức ép mà các đối tác, nhất là các nước lớn đang đè nặng, lôi kéo, ép buộc Việt Nam phải chọn phe trong thời gian gần đây./.


[1] Xem: Hoàng Xuân Chiến: “Nâng tầm đối ngoại quốc phòng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, ngày 03/4/2022.

[2] Báo Nhân dân phỏng vấn Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến: “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới”, https://nhandan.vn, ngày 03/02/2022.

[3] Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.25.

Đại tá, PGS. TS Nguyễn Văn Quang
Trung tá, TS Đỗ Tiến Dũng
(Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực