Quan tâm đầu tư lĩnh vực giáo dục và đào tạo khu vực ĐBSCL

Thứ ba, 28/02/2023 21:30
0:00/ 0:00
Giọng nữ
  • Giọng nữ
(ĐCSVN)- Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn đề nghị các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long tập trung phối hợp với Bộ GD&ĐT và các Bộ, ngành để đề xuất chính sách đầu tư, khắc phục những khó khăn, đưa giáo dục của cả vùng cùng tiến bộ tốt hơn trong giai đoạn tới.

Ngày 27/2, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Dự Hội nghị có Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh; Bí thư Thành ủy Cần Thơ Lê Quang Mạnh; Bí thư Tỉnh ủy An Giang Lê Hồng Quang; Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng Lâm Văn Mẫn; Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ; Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang Nghiêm Xuân Thành; Giám đốc Đại học Quốc gia TPHCM Vũ Hải Quân; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Đinh Công Sỹ; Phó Chủ nhiệm Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Trần Thị Hoa Ry.

Hội nghị còn có sự tham dự của các Thứ trưởng Bộ GD&ĐT; Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Lê Tấn Dũng; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, lãnh đạo Sở GD&ĐT các tỉnh/thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; đại diện Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chính phủ và một số Bộ, ngành.

 Quang cảnh Hội nghị. Ảnh: TT

Giáo dục ĐBSCL đạt nhiều kết quả nhưng còn khó khăn, thách thức

Báo cáo tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL và nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng cho biết: Năm học 2019-2020, vùng ĐBSCL có tổng số có 2.002 cơ sở giáo dục mầm non với 584.099 trẻ em; 5.671 cơ sở giáo dục tiểu học với 1.251.886 học sinh; 1.341 cơ sở giáo dục THCS với 994.697 học sinh; 350 cơ sở giáo dục THPT với 433.072 học sinh. Toàn vùng có 176.173 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông.

Trong 10 năm qua, giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL tiếp tục ổn định và phát triển về quy mô mạng lưới trường, lớp, số học sinh/sinh viên từ mầm non đến đại học, được rà soát, sắp xếp theo hướng phù hợp với nhu cầu xã hội về ngành nghề và đa dạng về loại hình. Các ngành học, bậc học được giữ vững và phát triển về quy mô, số lượng và chất lượng. Chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ được đảm bảo, quan tâm bên cạnh việc đầu tư cho giáo dục chất lượng cao. Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì và nâng cao sau từng năm.

Điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục tiệm cận với mức trung bình chung của cả nước. Mặc dù còn nhiều khó khăn, vùng ĐBSCL vẫn có một số chỉ số về giáo dục và đào tạo đạt mức trung bình và trên trung bình so với cả nước. Từ việc chỉ có Trường Đại học Cần Thơ, hiện nay toàn vùng 17 trường đại học (trong có 6 trường đại học ngoài công lập), 10/13 tỉnh, thành phố đã có trường đại học. Tại các tỉnh còn lại đều có phân hiệu của các trường đại học hoặc có chủ trương đầu tư.

Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Việc huy động trẻ đến trường còn thấp, nhất là trẻ nhà trẻ. Mạng lưới trường, lớp mầm non còn phân tán, nhiều địa phương còn nhiều điểm trường, đặc biệt là ở những vùng có nhiều kênh rạch, cồn, bãi ngang...  Tỷ lệ huy động học sinh các cấp học phổ thông đi học đúng độ tuổi vẫn thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước, đặc biệt ở cấp THCS và cấp THPT có khoảng cách khá xa so với tỷ lệ chung của cả nước (từ 7% - 13%). Tỷ lệ người mù chữ của cả vùng còn cao.

Xây dựng cơ sở vật chất chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu phòng học, nhiều trường còn thiếu phòng học bộ môn, phòng chức năng, phòng làm việc. Tình trạng thiếu giáo viên còn xảy ra cục bộ ở một số địa phương. Chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ cũng như chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước.

ĐBSCL là khu vực có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (14,9%) và tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên (6,8%) thấp nhất cả nước theo báo cáo kinh tế thường niên năm 2022. Mặc dù quy mô đào tạo tăng trong 10 năm qua, song mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu được tiếp cận GDĐH của người dân. Toàn vùng có 17 trường đại học và 04 phân hiệu nhưng ngành, nghề đào tạo còn chưa cân đối. Số sinh viên người dân tộc thiểu số/vạn dân chưa vượt quá 100, tỷ lệ này chưa bằng 1/2 so với tỷ lệ chung của cả nước.

Quan điểm phát triển của giáo dục vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được xác định là: Phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội với tiến bộ khoa học và công nghệ, phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.

Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.

Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách để đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.

 Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: TT

Giáo dục ĐBSCL cấp bách kiên cố hóa trường lớp, đầu tư trang thiết bị

Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn đánh giá, giáo dục và đào tạo vùng ĐBSCL trong 10 năm qua đã có bước tiến, bứt phá với nhiều kết quả quan trọng. “Căn cứ vào minh chứng các số liệu có thể khẳng định, ĐBSCL đã thoát khỏi “vùng trũng” về giáo dục. Giờ không thể nói ĐBSCL là “vùng trũng” về giáo dục nữa, thậm chí còn có những điểm khả quan, đáng mừng”, Bộ trưởng nói.

Một trong những điểm theo Bộ trưởng rất đáng mừng là tuy chỉ số cơ sở vật chất, huy động trẻ đến trường, tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ học sinh được học 2 buổi/ngày... đang còn rất khó khăn, song chất lượng giáo dục phổ thông của vùng ĐBSCL rất khả quan khi đứng thứ 2 trên 6 vùng của cả nước.

Những kết quả giáo dục đạt được trước thách thức và khó khăn về cơ sở vật chất, về giáo viên và về các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục khác của vùng cho thấy sự cố gắng vượt lên trên khó khăn của các địa phương, nỗ lực không mệt mỏi của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và cho thấy “chất” của giáo dục vùng ĐBSCL - không màu mè, ít hình thức, kết quả được thể hiện ở các chỉ số giáo dục cụ thể.

Bộ trưởng GD&ĐT chỉ rõ hàng loạt khó khăn của giáo dục ĐBSCL hiện nay như: đứng trước thách thức kép vừa phát triển cùng cả nước, vừa củng cố, bù đắp cho các điều kiện đảm bảo tối thiểu, nền tảng, cơ bản của giáo dục; cần có đủ trường lớp, thu hút học sinh tới trường, giảm tỷ lệ mù chữ; yêu cầu gay gắt về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 trong 2 năm 2023-2024 … song, Bộ trưởng cũng chỉ ra những điểm là ưu thế, thuận lợi của vùng trong phát triển giáo dục.

Cụ thể, đó là lợi thế của một vùng kinh tế được dự báo sẽ có sự phát triển năng động trong tương lai, qua đó sẽ cải thiện điều kiện về hạ tầng cho giáo dục và đào tạo; là sự quan tâm, quyết tâm của chính quyền địa phương và đội ngũ nhà giáo.

Một thuận lợi nữa cũng được Bộ trưởng nhấn mạnh với giáo dục ĐBSCL, đó là việc học sinh ở đây còn giữ được nề nếp, con người hào hiệp, phóng khoáng. Những thông tin về vi phạm đạo đức, bạo lực học đường có chỉ số thấp. “Khó khăn chồng chất, thách thức rất nhiều nhưng cần có cái nhìn lạc quan về giáo dục ĐBSCL. Với cái nhìn đó, giáo dục sẽ đi con đường riêng bằng niềm tự hào và tìm ra được điểm mạnh”.

Trao đổi với các địa phương vùng ĐBSCL về những việc cần làm trong thời gian tới, Bộ trưởng đề cập tới các nhóm công việc và giải pháp tổng thể về đầu tư cơ sở hạ tầng; trong đó cấp bách là kiên cố hóa trường lớp, đầu tư trang thiết bị, phòng học bộ môn. Với quan điểm “Không dồn cho bằng được nhưng không để phân tán quá”, Bộ trưởng lưu ý, việc quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường học cần có phương án phù hợp với khu vực địa hình sông nước, chia cắt như ĐBSCL, khi xây dựng trường học, cần chọn những mẫu trường học phù hợp với địa hình, hướng đến mô hình gần gũi với thiên nhiên.

Cho rằng, mỗi tỉnh/thành phố vả cả vùng ĐBSCL tuy có vấn đề chung nhưng tình hình khác nhau, có địa phương thuận lợi, cũng có địa phương khó khăn, Bộ trưởng lưu ý các địa phương tập trung phối hợp với Bộ GDĐT và các Bộ, ngành để đề xuất chính sách đầu tư, khắc phục những khó khăn, đưa giáo dục của cả vùng cùng tiến với tốt độ tốt hơn trong giai đoạn tới.

Bộ trưởng cũng cho biết, sau Hội nghị này, Bộ GD&ĐT sẽ xác định hàng loạt việc phải làm nhằm tăng cường sự quan tâm tới giáo dục và đào tạo khu vực ĐBSCL. “Khó khăn còn nhiều, thách thức lớn nhưng hoàn toàn có thể lạc quan, tính trước hướng phát triển của giáo dục ĐBSCL trong thời gian tới”, Bộ trưởng chia sẻ, đồng thời bày tỏ tin tưởng toàn vùng sẽ tiếp tục vượt qua khó khăn để đưa giáo dục và đào tạo ĐBSCL phát triển./.

Mỹ Anh

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực