Sign In

40 năm chính sách xã hội Việt Nam: kết quả và định hướng trong kỷ nguyên mới

21:11 22/01/2025

 

1. Khái quát quan điểm và lý luận của Đảng về chính sách xã hội

 

Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước để quản lý và phát triển xã hội, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chi phối trực tiếp đến mọi mặt đời sống của người dân. Mục tiêu bao trùm của chính sách xã hội là nhằm mang lại cho mọi người dân trong xã hội một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc; phát triển xã hội một cách bền vững, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống văn hóa của dân tộc, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng.

 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng ta khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp chặt chẽ và hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”.[1] Yêu cầu có tính nguyên tắc này làm cho chính sách xã hội thể hiện rõ sứ mạng theo đuổi mục tiêu, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. 

 

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định những định hướng lớn về chính sách xã hội cần “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”. Đây là những quan điểm, định hướng rất quan trọng, đúng đắn của Đảng, đảm bảo các chính sách xã hội nhất quán và phù hợp với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Quá trình đổi mới nhận thức về chính sách xã hội của Đảng ta là một bước tiến dài mang tính lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được lan tỏa và chuyển biến nhận thức rõ rệt trong hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân. Quyền an sinh của người dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, do đó an sinh xã hội đã thay đổi từ hỗ trợ nhân đạo sang đảm bảo quyền an sinh của công dân; chuyển biến nhận thức của người dân và xã hội từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, tập thể, sang phát huy tính năng động, sáng tạo và tích cực của xã hội, người dân; chính sách phân phối từ đề cao quá mức lợi ích tập thể một cách chung chung đến phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; giải quyết việc làm từ chỗ Nhà nước bao cấp dần chuyển trọng tâm sang các thành phần kinh tế và người lao động tham gia tạo việc làm; từ chỗ chưa thừa nhận phân hoá giàu nghèo đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ nhóm yếu thế, người có hoàn cảnh khó khăn; việc giải quyết các vấn đề xã hội từ Nhà nước giữ vai trò nòng cốt và chủ yếu[2] chuyển sang Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp và xã hội.

 

Quan điểm bao trùm, xuyên suốt của Đảng ta từ Đại hội VI năm 1986, đến Đại hội XII, năm 2016; đặc biệt là Nghị quyết số 15–NQ/TW về một số chính sách xã hội giai đoạn 2012–2020, khẳng định: (i) Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển; (ii) chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống người dân như điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, chăm sóc y tế và nhà ở, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc; (iii) chính sách xã hội thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân và vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (iv) chính sách xã hội đặt trọng tâm, ưu tiên để phát huy nhân tố con người; bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao phúc lợi xã hội; xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn; (v) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội, huy động sự tham gia và đóng góp của toàn xã hội.

 

Quá trình phát triển về lý luận và thực tiễn, chính sách xã hội từng bước được hoàn thiện và trở thành một hệ thống quan điểm toàn diện, vững chắc trong thời kỳ đổi mới. Kế thừa và phát huy thành quả đó, Hội nghị trung ương lần thứ tám, khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

 

2. Kết quả nổi bật của chính sách xã hội thời gian qua

 

Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước phát triển, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhà nước ta đã triển khai có hiệu quả các chính sách xã hội để giải quyết thành công nhiều vấn đề xã hội và góp phần đem lại niềm tin và sự hài lòng của Nhân dân, thể hiện ngày càng rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta Một số kết quả nổi bật đã đạt được như sau:

 

Từ xuất phát điểm thấp, là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới với gần 60% hộ nghèo đói, trong vòng gần 4 thập niên đổi mới, đất nước ta đã ngoạn mục giảm nhanh tỉ lệ hộ nghèo xuống dưới 2%, thu nhập bình quân đầu người đã tăng hơn 40 lần.[3] Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên, đặc biệt mức sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt. “Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất về giảm nghèo và đóng góp nhiều bài học thành công cho thế giới”.[4]

 

Chính sách ưu đãi người có công được quan tâm đặc biệt và thực hiện tốt, phong trào “đền ơn đáp nghĩa” được triển khai sâu rộng đem lại sự hài lòng đối với người có công, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đến năm 2023, xác nhận được trên 9,2 triệu người có công và thân nhân, có trên 1,2 triệu người đang hưởng ưu đãi hàng tháng, cơ bản hỗ trợ dứt điểm đối với hộ người có công gặp khó khăn về nhà ở; 98,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; giải quyết căn bản hồ sơ tồn đọng; thực hiện tốt quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính liệt sĩ, tu bổ, nâng cấp nghĩa trang và công trình ghi công liệt sĩ.

 

Thể chế thị trường lao động từng bước được hoàn thiện, trở thành giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm, giúp duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp dưới 3% và chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực. Quan hệ phân phối chủ yếu dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, bảo đảm công bằng và góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo động lực cho phát triển. Tiền lương, thu nhập được cải thiện tích cực giúp đảm bảo đời sống người lao động[5]; tiền lương tối thiểu được điều chỉnh hàng năm, cơ bản đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động.

 

Mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển nhanh, chính sách phổ cập giáo dục bảo đảm phát triển toàn diện cho trẻ em và hỗ trợ cho đối tượng yếu thế, phổ cập giáo dục đã hoàn thành trước thời hạn từ cấp mầm non đến trung học cơ sở.[6] Nhận thức về học nghề, phát triển giáo dục nghề nghiệp trong xã hội có chuyển biến mạnh mẽ; qui mô đào tạo nghề tăng hàng năm, chất lượng đào tạo được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ lên 27% năm 2023. Đặc biệt, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng lên đáng kể, đưa Việt Nam vào nhóm “các quốc gia phát triển con người cao”[7] và xếp thứ hạng cao về chỉ số vốn nhân lực (HCI), chỉ sau Singapore trong khu vực Đông Nam Á.[8] Chỉ số phát triển giới của Việt Nam nằm trong các quốc gia thuộc nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới.[9] Đã thu hẹp khoảng cách giới trên tất cả các mặt; vai trò, địa vị của phụ nữ được củng cố và nâng cao cả trong gia đình và ngoài xã hội.

 

Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tăng đều hàng năm, đạt 39,25% năm 2023. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm thất nghiệp năm 2023 đạt 31,85% lực lượng lao động trong độ tuổi. Trong vòng 10 năm, chúng ta đã thực hiện thành công bảo hiểm y tế toàn dân, tạo điều kiện cho người dân tham gia và thụ hưởng dịch vụ chăm sóc y tế. Y tế dự phòng, y tế cơ sở được tăng cường, nhất là ở các huyện nghèo và các xã đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần; tuổi thọ trung bình của dân cư tăng lên 74 tuổi vào năm 2023.[10]

 

Công tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang hướng tiếp cận dựa trên quyền. Các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng đủ điều kiện được hưởng, đến nay đạt 3,3 triệu người, chiếm 3,5% dân số năm 2022. Trợ giúp xã hội đột xuất đã bao phủ các nhóm đối tượng, bảo đảm người dân được hỗ trợ kịp thời khi gặp rủi ro, thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt trong đại dịch Covid-19 vừa qua (giai đoạn 2020-2022).[11]

 

Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng, Nhà nước rất quan tâm đầu tư nguồn lực ngày càng lớn cho thực hiện chính sách xã hội, chiếm gần 20% trong tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm. Bên cạnh nguồn lực mở rộng, chủ chương xã hội hóa đã phát huy được sự tham gia của các đối tác trong thiết kế chính sách và thực hiện chính sách; đã huy động nguồn lực đa dạng và đa ngành, đa cấp tham gia vào thực hiện chính sách xã hội[12].

 

Nhìn chung, trong 40 năm qua, việc thực hiện các chính sách xã hội mang lại những thành tựu to lớn và cơ bản, diện mạo xã hội thay đổi căn bản, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân khắp mọi miền đất nước được nâng lên rõ rệt; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; kinh tế, xã hội phát triển toàn diện và hài hòa hơn. Thể chế, luật pháp, chính sách được hoàn thiện cơ bản, vững chắc; chính sách xã hội đã cơ bản bao phủ đến toàn dân; bước đầu đã hình thành và phát triển được hệ thống an sinh xã hội đặc trưng của Việt Nam, đảm bảo công bằng, tiến bộ, tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế và khẳng định ba chức năng cơ bản, thiết yếu của an sinh xã hội là phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục các rủi ro cho người dân.

 

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém. Kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững, chênh lệch giàu nghèo còn lớn; bất bình đẳng về thu nhập còn cao; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn; khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng miền còn lớn. Thị trường lao động chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân lực và việc làm thấp; chất lượng giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động. Phạm vi bao phủ bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội thường xuyên còn thấp; khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng còn hạn chế.

 

Ngoài các nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các nguyên nhân chủ quan là do hệ thống chính sách, pháp luật còn chưa đồng bộ; việc lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ đảng, chính quyền còn chưa được quan tâm đúng mức; phương thức quản lý, quản trị nhà nước trong lĩnh vực xã hội còn chậm đổi mới; tổ chức bộ máy, nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn lực thực hiện chính sách xã hội có nơi, có lĩnh vực hiệu quả chưa cao.

 

3. Định hướng chính sách xã hội trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 

Việt Nam đang vững bước vào Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc – kỷ nguyên phồn vinh và hạnh phúc[13] trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và đổi mới, sáng tạo với mục tiêu cao cả là vì hạnh phúc của con người, của Nhân dân. Chính sách xã hội trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là chính sách xã hội bao trùm, bền vững. Phát triển bao trùm, bền vững về xã hội không chỉ đơn thuần là việc đạt được những thành tựu phát triển kinh tế mà còn là việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội, là sự quan tâm, chăm lo toàn diện đến cuộc sống và quyền lợi của mọi người, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội. Tư tưởng này đã được Tổng bí thư Tô Lâm chỉ rõ “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau”. Chính là sự khẳng định “chính sách xã hội vì con người, cho con người, suy cho cùng là không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm hạnh phúc của nhân dân”.

 

Tư tưởng này đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 42/NQ-TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới (gọi tắt là Nghị quyết số 42/NQ-TW). Nghị quyết số 42/NQ-TW xác định rõ mục tiêu tổng quát đến năm 2030: “Xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế gắn với việc làm bền vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân..”; về tầm nhìn đến năm 2045: “Hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho Nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước và xây dựng con người Việt Nam toàn diện…”.

 

Định hướng chính sách xã hội trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần nhấn mạnh sự chuyển hướng tiếp cận từ ổn định đảm bảo sang ổn định và phát triển - không chỉ tập trung cho nhóm yếu thế mà vươn lên đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội bao trùm, toàn dân, lấy tầng lớp trung lưu dẫn dắt xã hội; mở rộng từ an sinh xã hội sang chính sách xã hội bao trùm, toàn diện, gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững. Định hướng này đặt ra yêu cầu về đổi mới tư duy, quyết tâm cao, hành động quyết liệt và có chiến lược phù hợp để quản lý phát triển xã hội với sự đột phá về đổi mới công cụ chính sách xã hội nhằm thúc đẩy sự phát triển xã hội, vươn tới một tầm cao mới của một xã hội thịnh vượng trong một quốc gia phát triển đến năm 2045.

 

Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, định hướng chính sách xã hội là bao trùm, bền vững và phát triển đồng bộ dựa trên 3 trụ cột:

 

Mộtlà, tập trung cho phát triển con người, đầu tư cho con người, thúc đẩy phát triển tầng lớp trung lưu và khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn lực con người cho phát triển. Giải quyết “nút thắt cố hữu” là chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động thấp. Đột phá phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững, trọng tâm là bảo đảm việc làm bền vững và sinh kế cho người dân; đầu tư mạnh mẽ vào đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực kỹ thuật-công nghệ, nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

 

Hailà, tập trung phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, bao trùm, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội, người dân và giữa các nhóm dân cư; phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, bao phủ được toàn bộ lực lượng lao động; và nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội đảm bảo mức sống tối thiểu; trợ cấp xã hội cho hộ nghèo không có khả năng thoát nghèo. Tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế toàn dân; bảo hiểm thất nghiệp phải là ”bà đỡ” cho doanh nghiệp và người lao động khi gặp khó khăn; hoàn thiện hệ thống trợ giúp xã hội. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng.

 

Ba là, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng. Nhà nước phải huy động nguồn lực đầu tư để nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hoá,... Ngoài ra, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt, để xóa bỏ hoàn toàn tình trạng nhà tạm, nhà dột nát cho các đối tượng là người nghèo, cận nghèo và đối tượng xã hội, về đích trước 5 năm so với mục tiêu Nghị quyết.

 

Chính sách xã hội bao trùm, bền vững theo đuổi các mục tiêu chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước. Tương lai tươi sáng của Việt Nam sẽ được xây dựng từ sự quyết tâm thực hiện phát triển bền vững và bao trùm về xã hội, vươn tới một xã hội thịnh vượng và luôn đảm bảo đặc trưng xã hội chủ nghĩa khi không một ai bị bỏ lại phía sau trong hành trình phát triển. Bước vào kỷ nguyên mới, vươn tầm đạt đến một quốc gia công bằng, dân chủ, văn minh, nơi mà mọi người dân đều được sống trong môi trường an toàn và hạnh phúc./.

 

TS. Bùi Tôn Hiến                                                   

Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội

 


 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI, 2012, Nghị Quyết số 15-NQ/TW, ngày 01/6/2012 về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020.
  2. Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XIII, 2023, Nghị Quyết số 42-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
  3. Ban chỉ đạo TƯ, Báo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2022.
  4. Ban Tuyên giáo TW (2024), Báo cáo tư vấn “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”.
  5. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2023), Báo cáo Tổng kết 40 năm Đổi mới “Việc xây dựng, hoàn thiện các chủ trương, cơ chế, chính sách giải quyết các vấn đề xã hội: An sinh xã hội, quan hệ lao động, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, mâu thuẫn xã hội hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội.” (Chuyên đề 4, Nhóm 3).
  6. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2019, Thành tựu 10 năm và những bài học kinh nghiệm cho đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam.
  7. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia.
  8. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia.
  9. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia.
  10. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia.
  11. Ngân hàng thế giới, 2020, Cập nhật chỉ số Vốn nhân lực 2020.
  12. Quốc hội Việt Nam (2023), Báo cáo Tổng kết 40 năm Đổi mới: “Phát triển xã hội bền vững; mô hình tổ chức và phương thức quản lý phát triển xã hội trong điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế“ (Chuyên đề 5, Nhóm 3).
  13. UNDP, 2020, Báo cáo Phát triển con người.

 



[1] Giáo sư, tiến sĩ, Tổng bí Thư Nguyễn Phú Trọng, “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ bẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn. Minh, văn hiến và anh hùng”.   

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, NXB Chính trị quốc gia, tr398.

[3] Năm 1990, thu nhập bình quân đầu người khoảng 98 USD/người, năm 2023 đạt khoảng 4.284 USD/người

[4] Theo nhận xét của Bà Catiline Wiesen - Trưởng đại diện Văn phòng UNDP tại Việt Nam.

[5] Thu nhập bình quân đầu người năm 2022 là 4,7 triệu đồng/người/tháng, tăng hơn 2,5 lần trong 10 năm qua.

[6] Trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%.

[7] Điểm số HDI tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,726 năm 2022, xếp thứ 107/193 quốc gia.

[8] Ngân hàng thế giới, 2020, Cập nhật chỉ số Vốn nhân lực 2020.

[9] UNDP, 2020, Báo cáo Phát triển con người.

[10] Năm 1990, tuổi thọ bình quân của dân cư là 62 tuổi

[11]Trong 3 năm qua đã nhanh chóng, kịp thời triển khai 4 gói cứu trợ chưa từng có tiền lệ, với số tiền trên 120 ngàn tỷ đồng và trên 200 ngàn tấn gạo hỗ trợ cho trên 68 triệu lượt người. (Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của CP; Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021; Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021; Quyết định 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của TTg). 

[12] Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2023), Báo cáo Tổng kết 40 năm Đổi mới “Việc xây dựng, hoàn thiện các chủ trương, cơ chế, chính sách giải quyết các vấn đề xã hội: An sinh xã hội, quan hệ lao động, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, mâu thuẫn xã hội hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội.” (Chuyên đề 4, Nhóm 3).

[13] Ban Tuyên giáo TW (2024), Báo cáo tư vấn “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, Tr.2.

Tag:

File đính kèm