CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Tháng 11 năm 1953
Về vấn đề ruộng đất
Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến, đánh đuổi đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền, hoàn toàn giải phóng dân tộc.
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mở đường cho công thương nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến quốc.
Cần phải xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Trong nhân dân ta, nông dân chiếm gần 90%. Đối với kháng chiến, nông dân đóng góp nhiều nhất, hy sinh nhiều nhất. Nhưng nông dân phần nhiều lại không có, hoặc có rất ít ruộng đất. Nông dân làm lụng vất vả quanh năm mà vẫn không được no cơm, ấm áo. Tình hình ấy rất không hợp lý, không công bằng. Vì vậy, nông dân yêu cầu được ruộng đất là một điều rất chính đáng, rất hợp với lợi ích giải phóng dân tộc. Chỉ có thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, làm cho hàng chục triệu nông dân hăng hái tham gia kháng chiến, thì kháng chiến mới hoàn toàn thắng lợi, cách mạng chắc chắn thành công.
Vì vậy, Đảng Lao động Việt Nam định ra cương lĩnh ruộng đất như sau:
1. Tịch thu toàn bộ ruộng đất và tài sản của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác.
2. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của bọn Việt gian phản quốc.
3. Tịch thu hoặc trưng thu (tuỳ tội nặng nhẹ), ruộng đất trâu bò, nông cụ và tài sản khác của địa chủ phản động và cường hào gian ác.
4. Trưng thu ruộng đất công và ruộng đất nửa công, nửa tư bao gồm ruộng phe, ruộng giáp, ruộng tư văn, tư võ, ruộng các đoàn thể, v.v..
5. Trưng thu hoặc trưng mua (tuỳ trường hợp) ruộng đất của các tôn giáo.
6. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của ngoại kiều hợp tác với đế quốc xâm lược và nguỵ quyền. Trưng mua ruộng đất, trâu bò, nông cụ của những địa chủ ngoại kiều khác.
7. Trưng mua ruộng đất, trâu bò nông cụ của địa chủ kháng chiến và địa chủ thường; địa chủ kháng chiến, nhân sĩ dân chủ được chiếu cố một cách thích đáng.
Giá tiền và cách giả tiền do Chính phủ quy định.
8. Xoá bỏ nợ mà nông dân lao động và những người thuộc tầng lớp nghèo ở nông thôn vay của địa chủ.
9. Xoá bỏ độc quyền của đế quốc và phong kiến về mặt biển và khúc sông.
10. Không đụng đến ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản khác của phú nông.
11. Kiên quyết bao hộ ruộng đất, trâu bò, nông vụ, nhà cửa và tài sản khác cua trung nông.
12. Bảo hộ công nghiệp và thương nghiệp. Không đụng đến công thương nghiệp cua địa chủ kháng chiến và địa chủ thường và những đất đai trực tiếp dùng vào công thương nghiệp của họ.
13. Không đụng đến ruộng đất của những người có ít ruộng đất phải phát canh vì tham gia công tác kháng chiến, vì thiếu sức lao động hoặc vì bận làm nghề khác.
14. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ, v.v. tịch thu, trưng thu và trưng mua đều chia hẳn cho nông dân không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất; họ được quyền sở hữu vĩnh viễn những thứ được chia và không phải trả tiền.
15. Lấy xã làm đơn vị chia ruộng đất và theo đầu người mà chia một cách công bằng.
16. Liệt sĩ, quân nhân cách mạng, thương binh, bệnh binh, cán bộ, nhân viên phục vụ kháng chiến và gia đình họ ở nông thôn không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất đều được chia ruộng đất. Liệt sĩ, quân nhân cách mạng, thương binh, bệnh binh được ưu đãi trong khi chia.
17. Khi tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất để lại cho địa chủ (trừ những người bị tù từ trên 5 năm trở lên) và gia đình họ một phần ruộng đất tương đương với phần ruộng đất được chia của nông dân.
18. Gia đình nguỵ binh thuộc thành phần nông dân lao động không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất thì được chia ruộng đất. Nguỵ binh cũng được một phần ruộng đất nhưng khi họ chưa bỏ hàng ngũ nguỵ quân trở về với Tổ quốc thì ruộng đất ấy do Uỷ ban kháng chiến hành chính hay nông hội xã quản lý.
19. Những rừng nhỏ, ao hồ, đầm, đất hoang, vườn cây ăn quả nếu có thể chia, đều chia cho nông dân.
20. Những đồn điền canh tác bằng máy, hoặc những đồn điền trồng cà phê, cao su, v.v. theo kỹ thuật tiến bộ, các trại thí nghiệm, những hầm mỏ, những nơi có cổ tích lịch sử, v.v. thì không chia mà do chính quyền quản lý.
21. Để thực hiện cải cách ruộng đất phải phát động quần chúng theo đúng đường lối chung của Đảng ở nông thôn: dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
22. Chính quyền sẽ thành lập Uỷ ban cải cách ruộng đất từ cấp trung ương đến cấp tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền, những Uỷ ban này có nhiệm vụ lãnh đạo cụ thể phong trào quần chúng, thực hiện cải cách ruộng đất.
Ở cấp xã, nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng đấu tranh thực hiện cải cách ruộng đất thuộc về Hội nghị đại biểu nông dân và Ban Chấp hành Nông hội.
23. Cương lĩnh này định cho toàn quốc, những vùng tự do có đủ điều kiện thì thi hành trước, các vùng khác chưa đủ điều kiện thì thi hành sau. Đối với những vùng dân tộc thiểu số sẽ có quy định riêng.
Các cấp uỷ chưa được thông tri thực hiện bản cương lĩnh này thì nhất thiết không được tự tiện làm bừa.
Toàn thể đảng viên Đảng Lao động Việt Nam phải phấn đấu một cách triệt để và trung thành đặng thực hiện cương lĩnh của Đảng về vấn đề ruộng đất. Những đảng viên nào chống lại hoặc có thái độ giả dối trong khi thực hiện bản cương lĩnh này, những đảng viên nào che chở cho địa chủ, không kiên quyết giúp dỡ nông dân, đều không xứng đáng là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam và sẽ bị Đảng thi hành kỷ luật.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của Đảng, nhất định nhân dân ta sẽ vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử:
- Tiêu diệt đế quốc xâm lược,
- Xoá bỏ chế độ bóc lột phong kiến,
- Thực hiện một nước Việt Nam độc lập thống nhất, dân chủ, phú cường.
Theo: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, t.14, tr. 499