|
|
Huyện được bao bọc bởi 02 sông lớn là sông Cổ Chiên và sông Hàm Luông, giao thông đường thủy góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế của Mỏ Cày Nam. (Ảnh: T. Thảo) |
Huyện Mỏ Cày Nam có diện tích cây dừa hiện đang bao phủ toàn huyện với 16.920ha, đứng thứ hai của tỉnh Bến Tre. Huyện được bao bọc bởi 02 sông lớn là sông Cổ Chiên và sông Hàm Luông; trên địa bàn huyện có 02 tuyến quốc lộ lớn đi qua là Quốc lộ 57 và Quốc lộ 60, tạo thuận lợi cho Mỏ Cày Nam có mối liên hệ vùng, kết nối với các địa phương trong và ngoài tỉnh, phát triển các lĩnh vực kinh tế- xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra mục tiêu xây huyện Mỏ Cày Nam đạt Huyện nông thôn mới. Để thực hiện được mục tiêu đó, ngay đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ và chính quyền Nhân dân huyện đã xác định các vùng nguyên liệu tập trung cho sản phẩm dừa và vật nuôi phù hợp tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương.
Cụ thể, huyện Mỏ Cày Nam đã thực hiện xây dựng Đề án Quy hoạch vùng trồng dừa hữu cơ, phấn đấu toàn huyện có 30% diện tích vườn dừa thực hiện quy trình canh tác hữa cơ; trong đó có 10% được chứng nhận thực hiện liên kết tiêu thụ hiệu quả và bền vững, 70% diện tích còn lại được đầu tư thâm canh, phát triển trồng xen, nuôi xen để tăng thu nhập; công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật trên cây dừa luôn được quan tâm, các giải pháp chăm sóc, canh tác cây dừa trong điều kiện hạn mặn, canh tác dừa hữu cơ,... được triển khai thường xuyên và đầy đủ đến tận người dân.
Bên cạnh cây dừa, hệ thống cây ăn trái của huyện cũng phát triển khá mạnh với diện tích 1.892 ha (đa phần là trồng xen), sản lượng ước đạt 6.213 tấn, chủ yếu tập trung nhiều nhất là cây Bưởi Da xanh. Trên cơ sở đó, huyện định hướng xây dựng Vùng cây ăn trái (vùng liên xã) với diện tích trên 500 ha, tập trung ở 05 xã: An Định, An Thới, Tân Trung, Minh Đức và Hương Mỹ.
Song song với quy hoạch phát triển vùng cây trồng chủ lực, huyện đã quy hoạch vùng chăn nuôi. Mỏ Cày Nam là huyện có tổng đàn heo xấp xỉ 200.000 con; gia cầm gần 1.500.000 con. Huyện đã có định hướng quy hoạch vùng chăn nuôi liên xã Thành Thới A, Thành Thới B, Cẩm Sơn, An Thới và Ngãi Đăng, đây là những xã có quy mô chăn nuôi lớn, tổng đàn chiếm trên 50% toàn huyện.
Bước đầu, huyện đã xây dựng nhãn hiệu chứng nhận Heo Mỏ Cày Nam và nhãn hiệu chứng nhận Gà tàu lai nòi Mỏ Cày Nam. Huyện tổ chức chăn nuôi theo mô hình liên kết sản xuất, gắn kết chặt chẽ chuỗi giá trị và đa dạng hóa các sản phẩm chăn nuôi để nâng cao giá trị gia tăng. Phát triển ngành chăn nuôi của huyện theo hướng tập trung trang trại, an toàn vệ sinh phòng dịch, gắn với công tác bảo vệ môi trường.
Là địa phương có nhiều thế mạnh, hiện nay huyện Mỏ Cày Nam đã xây dựng vùng nuôi tôm càng xanh tại các xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh, An Thạnh, Đa Phước Hội với diện tích trên 500 ha trên nền tảng các tổ hợp tác nuôi Tôm Càng xanh tại các xã này và duy trì hoạt động ở mức khá.
|
|
Huyện Mỏ Cày Nam kêu gọi, khuyến khích đầu tư các mô hình sản xuất nuôi trồng thủy hải sản ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn. (Ảnh minh họa: An Nhiên) |
Liên kết sản xuất, kết nối thị trường
Cùng với đó, để góp phần đưa chất lượng nông sản của chuỗi giá trị chủ lực huyện Mỏ Cày Nam kết nối với doanh nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ luôn được quan tâm. Huyện Mỏ Cày Nam kêu gọi, khuyến khích đầu tư các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn.
Với mục tiêu nâng thu nhập bình quân đầu người đạt 92 triệu đồng/người/năm trong giai đoạn 2020- 2025, huyện đã đẩy mạnh kết nối thị trường cho các nông sản chuỗi giá trị chủ lực của huyện thông qua hệ thống Tổ hợp tác, Hợp tác xã. Hiện huyện có 290 tổ hợp tác thuộc lĩnh vực Nông nghiệp, với 4.170 thành viên tham gia; 10 hợp tác xã nông nghiệp, với 915 thành viên tham gia, vốn điều lệ 3.236 triệu đồng, có 200 lao động thường xuyên làm việc trong HTX với thu nhập bình quân là 4,5 triệu đồng/người/tháng; doanh thu bình quân của HTX là 5 tỷ đồng/năm, lợi nhuận 200 triệu đồng/năm/hợp tác xã.
Việc phát triển các HTX trên địa bàn huyện đã góp phần rất quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương theo hướng tăng hiệu quả, khai thác tốt tiềm năng nguồn nguyên, vật liệu hiện có và nguồn lực lao động tại chỗ và góp phần tạo ra giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm.../.