Ngày 23/7, tại Hà Nội, Trường Đại học Ngoại thương phối hợp với Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Tọa đàm đối thoại chính sách "Phát triển kinh tế tuần hoàn: Từ kinh nghiệm quốc tế đến chính sách của Việt Nam". Tham dự Tọa đàm có các nhà nghiên cứu, chuyên gia kinh tế, cán bộ, giảng viên và sinh viên Trường Đại học Ngoại thương.
|
Tọa đàm đối thoại chính sách "Phát triển kinh tế tuần hoàn: Từ kinh nghiệm quốc tế đến chính sách của Việt Nam" diễn ra tại Trường Đại học Ngoại thương. |
Phát triển kinh tế tuần hoàn là tất yếu, phù hợp với xu hướng thế giới
Phát biểu khai mạc, PGS. TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, chủ trì Tọa đàm, nhấn mạnh: Năm 2022, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) ở Việt Nam, khẳng định việc chủ động phát triển KTTH là tất yếu, phù hợp với xu hướng, yêu cầu tạo đột phá trong phục hồi kinh tế và thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG); góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chủ động thích ứng, chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, để phát triển KTTH, đưa mô hình KTTH vào thực tiễn đòi hỏi sự phối hợp của các cơ quan liên quan, sự đồng bộ trong chính sách của Nhà nước, sự hưởng ứng từ các trường đại học, viện nghiên cứu và các mô hình triển khai trong thực tế cùng sự sáng tạo của các doanh nghiệp. Tọa đàm đối thoại chính sách "Phát triển kinh tế tuần hoàn: Từ kinh nghiệm quốc tế đến chính sách của Việt Nam" do Trường Đại học Ngoại thương phối hợp với Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức nhằm trao đổi, thảo luận về thực trạng, những điểm nghẽn trong phát triển KTTH và từ đó đề xuất giải pháp phát triển KTTH ở Việt Nam trong bối cảnh mới.
|
PGS. TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương và nhà báo Phạm Đức Thái, Phó Tổng Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đồng chủ trì Tọa đàm. |
Thông tin được các diễn giả chia sẻ tại Tọa đàm cho biết: Trong giai đoạn trước Đại hội lần thứ XII của Đảng (trước năm 2016), thuật ngữ KTTH chưa được đề cập trong các chính sách của Nhà nước, nhưng đã có một số định hướng, giải pháp liên quan đến việc thực hiện KTTH. Trong giai đoạn thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng (từ năm 2016 đến năm 2020), KTTH đã được chỉ ra trong một số định hướng trọng điểm quốc gia như định hướng phát triển bền vững năng lượng của Việt Nam; Kế hoạch hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030. Trong giai đoạn từ Đại hội lần thứ XIII của Đảng (từ năm 2021) đến nay, KTTH đã được lồng ghép trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Bên cạnh đó, nhiều nghị quyết, chiến lược mới ban hành về cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển công nghiệp đã đề cập việc áp dụng KTTH. Tháng 6/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Đề án phát triển KTTH ở Việt Nam.
Cụ thể, Đề án phát triển KTTH (Quyết định 687/2022/QĐ-TTg ngày 07/06/2022) khẳng định: Phát triển KTTH nhằm tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường hiệu quả, tính gắn kết tuần hoàn giữa các doanh nghiệp và ngành kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu của doanh nghiệp và chuỗi cung ứng trước các cú sốc từ bên ngoài, nhằm góp phần đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
Mới đây, Đề án Phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy KTTH trong nông nghiệp đến năm 2030 (Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 19/6/2024) nêu rõ: Phát triển KTTH trong nông nghiệp dựa trên cơ sở đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, tiên tiến để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong nông nghiệp, gia tăng giá trị nông sản, tăng tỷ lệ phụ phẩm nông nghiệp được tái sử dụng, tái chế, bảo vệ môi trường, tạo việc làm, thúc đẩy quá trình chuyển đổi nông nghiệp xanh, phát thải thấp.
|
PGS.TS Lê Thị Thu Hà, Giám đốc Trung tâm sáng tạo và ươm tạo (Trường Đại học Ngoại thương) trình bày tham luận. |
Với tham luận “Kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển KTTH”, PGS.TS Lê Thị Thu Hà, Giám đốc Trung tâm sáng tạo và ươm tạo (Trường Đại học Ngoại thương) đã chỉ ra một số mô hình tiêu biểu của Phần Lan - quốc gia đầu tiên xây dựng và ban hành lộ trình phát triển KTTH từ năm 2016 với các lĩnh vực: thực phẩm bền vững, vòng tuần hoàn lâm nghiệp, vòng tuần hoàn kỹ thuật, vận tải và logistics, và các hành động chung. Cũng năm 2016, trong bối cảnh EU ban hành gói KTTH vào năm 2015, Hà Lan chính thức triển khai chương trình Chính phủ cho một nền KTTH, trong đó hướng đến đưa Hà Lan trở thành một đất nước theo tư duy tuần hoàn vào năm 2050. Đan Mạch năm 2015 cũng đã lên kế hoạch ngắn hạn trong 5 năm (đến năm 2020) và một kịch bản dài hạn trong 20 năm (đến năm 2035), trong đó mỗi kịch bản có tỷ lệ thích ứng và việc tạo ra giá trị đã được ước tính. Với Hoa Kỳ, ở khu vực ngoài nhà nước, các chủ thể thị trường khác như doanh nghiệp và tổ chức có tư cách pháp nhân được tự do tham gia kinh doanh và cung cấp các hàng hóa, dịch vụ liên quan tới mô hình KTTH. Trung Quốc đã ban hành các quy định liên quan đến KTTH và hệ thống chỉ số đánh giá bao gồm chỉ số phát triển kinh tế, chỉ số phát triển xanh và chỉ số phát triển con người...
|
TS. Lại Văn Mạnh, Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) trình bày tham luận. |
TS. Lại Văn Mạnh, Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) trình bày tham luận “Chính sách, pháp luật về KTTH và đề xuất lộ trình cho Việt Nam”, cho biết Đảng, Chính phủ Việt Nam khẳng định quan điểm phát triển KTTH với 4 nội dung cơ bản gồm:
Thứ nhất, ưu tiên thực hiện KTTH để tạo động lực tăng trưởng mới, nâng cao khả năng chống chịu, phục hồi cho nền kinh tế, tạo ra đột phá trong phát triển kinh tế, thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, tạo ra các chuỗi giá trị gia tăng mới, hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường, góp phần thực hiện các cam kết về bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và phát triển bền vững.
Thứ hai, thực hiện KTTH là quyền lợi và trách nhiệm của toàn xã hội; phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong áp dụng KTTH; quyền và lợi ích của người tiêu dùng, người dân là động lực để thúc đẩy áp dụng KTTH; Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường thể chế, chính sách để khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế, cộng đồng dân cư, các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên cơ sở các quy luật của kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Thứ ba, thực hiện KTTH là lộ trình dài hạn, gắn với thể chế khuyến khích đổi mới sáng tạo và đột phá, dựa trên các thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số; phát triển hạ tầng liên kết, đồng bộ giữa các vùng, miền; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo việc làm mới nhằm phát huy tối đa giá trị nguyên liệu, vật liệu và chất thải trong toàn bộ giai đoạn thiết kế, sản xuất, phân phối, tiêu dùng và quản lý chất thải.
Thứ tư, tận dụng tối đa lợi thế, tiềm năng, đặc điểm của các ngành, lĩnh vực, từng vùng, miền và địa phương, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và toàn diện để phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn phù hợp; phát triển các thực hành tốt, xây dựng văn hóa trong sản xuất và tiêu dùng bền vững; phát huy tính độc lập, tự chủ trong huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước và quốc tế cho thực hiện KTTH.
|
PGS.TS Bùi Quang Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam trình bày tham luận. |
Đồng bộ, thống nhất chính sách với thực tiễn trong phát triển kinh tế tuần hoàn
PGS.TS Bùi Quang Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam với tham luận “Phát triển KTTH: Con đường để phát triển bền vững ở Việt Nam” nhận định: Bối cảnh mới có nhiều xu hướng, nhiều thay đổi nhanh chóng và khó đoán định, đột phá về công nghệ, biến đổi khí hậu tiếp tục gia tăng…, trong đó một số xu hướng tạo ra thách thức và cơ hội cho thực hiện KTTH cũng như phát triển bền vững ở Việt Nam. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nhanh và bền vững, các mục tiêu của chương trình nghị sự SDG 2030 về phát triển bền vững, cam kết phát thải ròng bằng 0 cũng như thực trạng đang tụt hậu đòi hỏi phải có chuyển động nhanh và quyết liệt hơn. KTTH và chuyển đổi kép là tất yếu để phát triển bền vững và phải được nhận thức đầy đủ, khuyến khích cũng như được đẩy mạnh để chớp cơ hội, vượt qua thách thức. Do đó, cần có thể chế khuyến khích đổi mới sáng tạo, khuyến khích thực hiện KTTH theo các mô hình mới, khuyến khích cả xã hội chuyển đổi kép.
PGS.TS Bùi Quang Tuấn cũng cho rằng, cần phải rõ ràng về thay đổi tư duy từ nâu sang xanh, tư duy về bền vững, tạo dựng lối sống và văn hoá sống xanh, có trách nhiệm, tư duy bao trùm. Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình, các tầng lớp xã hội phải vào cuộc và có sự liên kết, chung tay. Song song là đảm bảo các điều kiện tổng hợp, nhất là nguồn lực tài chính xanh và con người cùng với đột phá về thể chế.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam cho rằng KTTH ở Việt Nam đang phát triển tự phát, chưa có mô hình chuẩn mực, thiếu quy hoạch cụ thể, khung chính sách chưa hoàn thiện nên việc triển khai còn manh mún, thiếu tính quy mô. Do đó, cùng với việc hỗ trợ bằng chính sách từ Nhà nước, cần tăng cường đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển KTTH trong bối cảnh mới, phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của Việt Nam...
|
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Chuyên gia Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam trình bày tham luận. |
PGS.TS Hồ Thúy Ngọc, Trưởng Khoa Đào tạo quốc tế (Trường Đại học Ngoại thương) trao đổi về "Áp lực từ sản phẩm do trí tuệ nhân tạo làm ra đối với chính sách thúc đẩy KTTH phát triển", nhấn mạnh nội dung áp lực chính sách về AI, trong đó có đề cập tới tính toàn vẹn của dữ liệu, sở hữu trí tuệ và bảo đảm an toàn của AI với tồn vong của các doanh nghiệp cũng như đền bù thiệt hại cho doanh nghiệp nếu dữ liệu thông tin do AI tổng hợp cung cấp gây ra, đặc biệt là các quy định pháp lý và chính sách đối với nhóm lao động dễ bị tổn thương do không sử dụng được công nghệ cao cùng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh…
Đồng chủ trì Tọa đàm, nhà báo Phạm Đức Thái, Phó Tổng Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đã chia sẻ góc nhìn từ báo chí, truyền thông đối với phát triển KTTH, trong đó có tuyên truyền, phổ biến chính sách, phản ánh kết quả thực thi chính sách và phản biện chính sách. Về nội dung này, TS. Lại Văn Mạnh, Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) kiến nghị, các cơ quan báo chí cần quan tâm truyền tải các thông tin mang tính phát hiện về các mô hình, sáng kiến phát triển KTTH trong thực tế, đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền việc phát triển KTTH ở những khu vực xa trung tâm, vùng xa xôi, khó khăn để người dân dễ dàng tiếp cận các thông tin liên quan đến KTTH.
|
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Tọa đàm. |
Đồng quan điểm trên, TS. Phạm Hương Giang, Giảng viên Khoa Kinh tế quốc tế (Trường Đại học Ngoại thương) cho rằng kế thừa kinh nghiệm quốc tế nhưng phải đặt trong bối cảnh gắn với doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước, vì thế, cần có lộ trình cụ thể để phát triển KTTH trong thực tế. Các cơ quan báo chí, truyền thông cần tăng cường thông tin về sự thiết yếu của mô hình KTTH cũng như hiệu quả mà mô hình KTTH mang lại cho xã hội và mỗi người dân, qua đó tạo sự lan tỏa, góp phần phát triển KTTH.../.