Tính đến ngày 10/7/2024, các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương đã giao chi tiết cho các nhiệm vụ, dự án là 639,4 nghìn tỷ đồng, đạt 95,5% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Số vốn còn lại chưa phân bổ chi tiết là 29,9 nghìn tỷ đồng, bao gồm: vốn NSTW là 8,2 nghìn tỷ đồng của 20/44 bộ, cơ quan trung ương và 21/63 địa phương; vốn ngân sách địa phương là 21,7 nghìn tỷ đồng của 23/63 địa phương. Ước thanh toán từ đầu năm đến ngày 30/6/2024 là 196,7 nghìn tỷ đồng, đạt 29,39% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2023 đạt 30,49%).
|
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng (Ảnh: MPI) |
Có 11/44 bộ, cơ quan trung ương và 35/63 địa phương có tỷ lệ giải ngân trên mức trung bình của cả nước, trong đó, một số bộ, cơ quan trung ương có tỷ lệ giải ngân cao là: Bộ Giao thông vận tải; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Xây dựng; Đài Truyền hình Việt Nam; Hội văn học nghệ thuật Việt Nam; Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; các địa phương: Nam Định; Thanh Hóa; Lào Cai; Phú Thọ; Bà Rịa - Vũng Tàu; Tiền Giang. Tỷ lệ giải ngân vốn thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân đạt 78,23% kế hoạch; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thuộc 3 chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) đạt 35,43%, cao hơn trung bình của cả nước (29,39%), cải thiện đáng kể so với 6 tháng đầu năm 2023 (28,23%).
Số lượng bộ, cơ quan trung ương, địa phương giải ngân dưới trung bình cả nước còn cao (33 bộ, cơ quan trung ương và 28 địa phương). Nhiều bộ, cơ quan trung ương, địa phương không duy trì được kết quả giải ngân tốt như cùng kỳ năm 2023, có 15 bộ, cơ quan trung ương, 33 địa phương có số vốn giải ngân thấp hơn số vốn của chính bộ, cơ quan trung ương và địa phương đó đã giải ngân trong cùng kỳ năm 2023. Một số địa phương được giao kế hoạch năm 2024 cao hơn năm 2023 nhưng có giá trị giải ngân thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm 2023 như: Thành phố Hồ Chí Minh; Quảng Ngãi; Thành phố Hải Phòng; Bắc Giang; Đồng Nai...
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, tỷ lệ giải ngân của các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm ngành giao thông vận tải, dự án giao thông liên vùng còn thấp: đến ngày 13/6/2023, tỷ lệ giải ngân của các dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông chỉ đạt 27,4%; dự án giao thông liên vùng do địa phương quản lý chỉ đạt 17,2%. Một số dự án được giao kế hoạch vốn năm 2024 lớn nhưng có tỷ lệ giải ngân thấp như: Dự án Vành đai 3 - TP. Hồ Chí Minh; Dự án Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội; Cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; Cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột; Cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh… Tỷ lệ giải ngân vốn của các dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài còn thấp, đạt 12% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ giải ngân trung bình của cả nước là 29,39%.
Cũng theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành: Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 giúp tháo gỡ các điểm nghẽn như bổ sung quy định đấu thầu trong lĩnh vực y tế; bổ sung trường hợp được áp dụng chỉ định thầu và trường hợp mua sắm đặc thù khác. Phân cấp cho Bộ trưởng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt; đơn giản hóa quy trình thủ tục đấu thầu; đẩy mạnh đấu thầu qua mạng, tăng tính công khai, minh bạch, ngăn chặn các hành vi thông đồng, gian lận trong đấu thầu…
Luật Nhà ở số 27/2023/QH15, Luật Đất đai số 31/2024/QH15, trong đó quy định việc xây dựng phương án đền bù, GPMB phải lấy ý kiến trực tiếp người dân trong khu vực có đất bị thu hồi, giải quyết được vấn đề cơ bản liên quan đến chính sách đền bù, bồi thường, hỗ trợ tái định cư; đền bù giá đất tương đối sát với giá thị trường hoặc đền bù tái định cư với điều kiện đảm bảo cuộc sống, sinh hoạt và việc làm tương đương hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
Đáng chú ý, cơ chế đặc thù chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ di dời hạ tầng kỹ thuật, gói thầu thực hiện đền bù, GPMB và tái định cư, gói thầu xây lắp của các dự án quan trọng quốc gia, dự án hạ tầng hạ tầng giao thông và y tế thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội: Việc áp dụng cơ chế này đã rút ngắn trình tự, thủ tục, giảm thời gian lựa chọn nhà thầu khoảng 3 tháng so với quy trình thông thường; chỉ sau khoảng 6 tháng đã phê duyệt dự án; sau 1 năm đã hoàn thành thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, lựa chọn nhà thầu. Cơ chế đặc thù không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường đã phát huy hiệu quả rõ rệt, biểu hiện ở việc thời gian thực hiện các thủ tục khai thác khoáng sản rút ngắn được khoảng 10 tháng theo quy định của Luật Khoáng sản; các nhà thầu chủ động được nguồn cung và tránh tình trạng đầu cơ, nâng giá khi triển khai đồng loạt các dự án lớn.
Thêm vào đó, cơ chế phân cấp cho UBND cấp tỉnh là cơ quan chủ quản thực hiện các dự án đường bộ cao tốc, dự án giao thông đi qua địa bàn 2 địa phương. “Việc thực hiện cơ chế này giúp phát huy tính chủ động và huy động hiệu quả nguồn lực của địa phương; tạo thuận lợi trong công tác GPMB, công tác cắm cọc GPMB, mốc lộ giới và một số thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng. Đồng thời giúp nâng cao năng lực của các cơ quan địa phương trong quản lý, thực hiện các công trình giao thông có quy mô lớn, yêu cầu cao về công nghệ, kỹ thuật” - Tư lệnh ngành kế hoạch và đầu tư nói.
Liên quan tới cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các CTMTQG, điều này đã giúp đẩy mạnh thực hiện phân cấp, tạo sự chủ động cho UBND cấp huyện trong triển khai thực hiện, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công các dự án thuộc Chương trình.
|
Đầu tư công vẫn là động lực tăng trưởng 2024 (Ảnh: PV) |
10 khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng tiến độ giải ngân đầu tư công 2024
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu rõ, có 10 khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân ảnh hưởng tới tiến độ giải ngân đầu tư công 2024, đó là:
Một là, khó khăn về nguồn thu NSĐP: Kế hoạch vốn NSĐP năm 2024 cao hơn khoảng 89 nghìn tỷ đồng so với năm 2023. Số vốn này chủ yếu từ nguồn thu sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết. Tuy nhiên, do tình hình thị trường bất động sản có nhiều biến động, kế hoạch tổ chức đấu giá, thu tiền sử dụng đất của các địa phương chưa thể thực hiện được, ảnh hưởng lớn tới nguồn vốn chi cho đầu tư công của các địa phương.
Hai là, việc chấp thuận chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, chủ trương chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phải thực hiện rất nhiều thủ tục tại nhiều cơ quan từ địa phương đến trung ương ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ của dự án.
Ba là, công tác bồi thường, GPMB, di dời hạ tầng kỹ thuật, xây dựng khu tái định cư, phê duyệt khung chính sách tái định cư, phê duyệt đơn giá đất còn chậm, kéo dài, chưa được xử lý dứt điểm.
Bốn là, tình trạng thiếu đất, cát đắp nền tiếp tục diễn ra, ảnh hướng tới tiến độ thực hiện nhiều dự án, đặc biệt là các dự án quan trọng quốc gia, dự án cao tốc, dự án trọng điểm đường liên vùng, đường ven biển.
Năm là, giá nguyên, nhiên vật liệu biến động do nguyên liệu đầu vào tăng cao. Giá đá, cát xây dựng tiếp tục tăng do tình trạng khan hiếm. Giá bán xi măng trong nước tương đối ổn định nhưng có sự chênh lệch theo từng khu vực.
Sáu là, tình trạng sụt lún, sạt lở các tuyến đường giao thông và khô cạn nước trên các tuyến kênh rạch ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long gây khó khăn trong quá trình vận chuyển vật tư vào công trình, ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình.
Bẩy là, còn tình trạng cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện né tránh, đùn đẩy công việc, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám tham mưu, đề xuất xử lý công việc, không thực hiện đầy đủ chức năng, quyền hạn trong thực thi công vụ gây ách tắc trong công tác tổ chức thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công.
Tám là, riêng các dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài: (1) Một số nhà tài trợ can thiệp tương đối sâu về mặt kỹ thuật vào quá trình triển khai dự án của phía Việt Nam hoặc có yêu cầu máy móc, không phù hợp điều kiện thực tế, quy định của Việt Nam; (2) Tại một số dự án, trong khi gói thầu xây lắp đã hoàn thành công tác đầu thầu, ký hợp đồng để khởi công nhưng gói thầu tư vấn giám sát chưa đấu thầu xong do nhà tài trợ yêu cầu phải thực hiện quy trình lựa chọn nhà thầu quốc tế, qua nhiều khâu, mất nhiều thời gian hơn. (3) Năng lực quản lý và thực hiện của một số chủ dự án và BQLDA, đặc biệt ở cấp cơ sở còn hạn chế; thành viên BQLDA làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, kỹ năng quản lý dự án không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt về trình độ ngoại ngữ; (4) Việc quy định giải ngân vốn ODA cấp phát phải đồng bộ với vốn ODA vay lại của dự án ODA do địa phương quản lý khiến một số dự án gặp nhiều khó khăn, dù có được bổ sung kế hoạch vốn ODA cấp phát nhưng không thể giải ngân được do hạn mức vốn ODA vay lại đã hết và muốn điều chỉnh hạn mức phải báo cáo Quốc hội tại kỳ họp cuối năm cơ bản không còn đủ thời gian để giải ngân.
Chín là, tỷ lệ giải ngân những tháng đầu năm thấp, xu hướng tăng mạnh trong những tháng cuối năm do tâm lý ngại giải ngân nhiều lần, ngại làm thủ tục thanh quyết toán vốn nhiều lần của cả chủ đầu tư, BQLDA và cả nhà thầu.
Mười là, giải ngân chậm vẫn là do công tác tổ chức thực hiện tại các bộ, ngành và địa phương còn nhiều bất cập; cùng mặt bằng pháp lý, có bộ, cơ quan trung ương, địa phương giải ngân tốt nhưng vẫn có những bộ, cơ quan trung ương, địa phương có tỷ lệ giải ngân chưa tốt; trong một số thời điểm, tại một số dự án, một số bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quyết liệt, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét.
Dịp này, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề xuất một số nhóm giải pháp để cải thiện giải ngân vốn đầu tư công, trong đó nhấn mạnh, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương phải chủ động thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; phấn đấu giải ngân vốn đầu tư công năm 2024 đạt trên 95% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao; lấy dự án đường dây 500 kV mạch 3 làm hình mẫu điển hình trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc triển khai thực hiện các dự án./.