Nhà yêu nước Phan Châu Trinh với khát vọng canh tân, đổi mới

Thứ hai, 09/09/2024 13:48
(ĐCSVN) - Nhà yêu nước Phan Châu Trinh, hiệu Tây Hồ, sinh ngày 9/9/1872, tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay thuộc thôn Tây Lộc, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Tên tuổi và sự nghiệp của Phan Châu Trinh gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào đầu thế kỷ XX. Ông không những là nhà hoạt động chính trị mà còn là một nhà văn, nhà báo, nhà văn hóa lỗi lạc với nhiều tác phẩm nổi tiếng.

Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đầy biến động, tuổi thơ của nhà yêu nước Phan Châu Trinh trải qua nhiều gian nan, cơ cực cùng với sự thăng trầm của lịch sử dân tộc: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, năm 1861 chiếm Nam Kỳ, năm 1873 chiếm Bắc Kỳ và năm 1885 chiếm kinh thành Huế; Việt Nam trở thành thuộc địa của nước Pháp.

Hòa mình với khí thế chống thực dân Pháp, Phan Châu Trinh theo học võ với nghĩa quân Nghĩa hội Quảng Nam đến năm 1887. Sau khi cha mất, phong trào Nghĩa hội bị đàn áp, Phan Châu Trinh về quê tiếp tục đi học. Năm 1892, ông kết bạn với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp khi theo học với thầy Mã Sơn - Trần Đình Phong, một nhà giáo có đức độ, chí khí, tận tâm đào tạo nhân tài cho Quảng Nam để sau này có điều kiện giúp dân, cứu nước. Năm 1900, Phan Châu Trinh thi đỗ cử nhân, một năm sau đỗ phó bảng nhưng phải trở về quê lo đám tang anh ruột và ở lại quê nhà dạy học.

 Nhà yêu nước Phan Châu Trinh (1872 - 1926)

 Năm 1903, Phan Châu Trinh được bổ nhiệm Thừa biện Bộ Lễ tại kinh thành Huế. Trong thời gian ở Huế, ông có điều kiện đọc sách về công cuộc duy tân ở Nhật Bản, tiếp cận chủ thuyết Tam dân “Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc” của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với xu hướng dân chủ tư sản của các nhà dân chủ Pháp và những kế sách cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ... đã tác động mạnh mẽ, chuyển biến trong tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Tuy sống và làm quan ở kinh đô nhưng ông luôn mang nặng nỗi đau của người dân mất nước. Do đó, năm 1904, ông đã từ quan trở về quê, tại làng Thạnh Bình (huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam) gặp Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu để bàn việc cứu nước.

Sau khi đàn áp và dập tắt phong trào Cần Vương, từ những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Nhân dân ta “một cổ hai tròng”: Một "tròng" là bị đô hộ và bóc lột bởi thực dân Pháp áp đặt sưu cao, thuế nặng cộng với chính sách chia để trị, kìm hãm sản xuất, vơ vét tài nguyên cung cấp cho chính quốc (nước Pháp); Một "tròng" là chịu sự thống trị của chế độ phong kiến thối nát, bán nước cầu vinh. Trước cảnh lầm than của nhân dân, Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước phải từ nội lực của nhân dân, cứu nước trước hết phải cứu dân, từ đó ông đưa ra chủ thuyết canh tân “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Năm 1905, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp lên đường vào Nam. Trên hành trình bôn ba trong nước, Phan Châu Trinh không ngừng truyền bá tư tưởng dân chủ, dân quyền với mục đích cuối cùng là giải phóng dân tộc, cứu dân thoát khỏi ách nô lệ. Với ảnh hưởng ấy, phong trào Duy Tân đã thu hút đông đảo các nhân sĩ yêu nước. Phan Châu Trinh luôn hết mình cổ xúy và đi đầu trong các cuộc vận động nhân dân hưởng ứng các phong trào cắt tóc ngắn, dùng hàng nội, mặc đồ âu, học chữ quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan..., nhờ đó, phong trào đã trở thành hành động phát triển mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân.

Với tư tưởng tự tôn dân tộc, Phan Châu Trinh vận động “Dĩ thương hợp quần”, thành lập nhiều thương hội để tập hợp những người yêu nước, lo cho dân giàu, nước mạnh. Về dân trí, các trường học duy tân được tổ chức, trong đó, tập trung nhiều nhất tại Quảng Nam như ở các huyện Diên Phong, Phước Bình, Phú Lâm, Đại Lộc... Với sự thành công của các mô hình cải cách tiến bộ này, các nhân sĩ yêu nước ở các tỉnh thành đã học tập, tiếp thu và nhân rộng ra cả nước.

 Hội thảo khoa học “Tư tưởng canh tân của nhà yêu nước Phan Châu Trinh” 
do UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức. (Ảnh: Đình Tăng)

Dưới ảnh hưởng hoạt động của Phan Châu Trinh, người dân nhiều nơi trên cả nước không chịu nổi áp bức, cường quyền, cuộc sống lầm than cơ cực, đã nhất tề vùng lên; phong trào chống sưu thuế là kết quả tất yếu của phong trào Duy Tân do nhà yêu nước Phan Châu Trinh khởi xướng, trong đó, quy mô lớn nhất được khởi phát từ tỉnh Quảng Nam vào năm 1908. Từ đây, phong trào nhanh chóng lan ra khắp nơi ở Trung Kỳ, từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Lần đầu tiên trong lịch sử, có những cuộc biểu tình nổi dậy đòi dân sinh, dân chủ thể hiện sức mạnh của quần chúng nhân dân lao động, khiến bộ máy chính quyền thực dân và phong kiến tay sai lung lay.

Trước sức mạnh to lớn của phong trào chống sưu cao thuế nặng; thực dân Pháp và tay sai đã đàn áp dã man, hàng nghìn nông dân bị giết, tra tấn, tù đày. Các chí sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị đày đi Côn Đảo. Không thể làm lung lay ý chí của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, ba năm sau, thực dân Pháp buộc phải trả tự do, nhưng lại giam lỏng ông ở Mỹ Tho. Trước sức ép phản đối quyết liệt của các chí sĩ và sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, thực dân Pháp phải cho ông ra nước ngoài cùng con trai vào cuối năm 1911.

Đến nước Pháp, Phan Châu Trinh tiếp tục đấu tranh, ông viết các tác phẩm nêu rõ thực trạng bần cùng của xã hội và tố cáo chính sách bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương. Năm 1914, Phan Châu Trinh bị bắt giam vào ngục Santé vì bị vu cáo thân nước Đức, chống Pháp. Một lần nữa, khí phách của nhà yêu nước Phan Châu Trinh được thử thách trong gông cùm lao tù; nhưng dù trong hoàn cảnh nào, từ Côn Đảo đến Mỹ Tho hay nhà tù thực dân, Phan Châu Trinh vẫn không ngừng đấu tranh cho lý tưởng độc lập dân tộc, dân chủ của nhân dân Việt Nam.

Tháng 7/1915, sau khi được thả, Phan Châu Trinh phải lao động khổ nhọc để kiếm sống và hoạt động cách mạng. Hoạt động của ông trong thời gian ở Pháp rất phong phú, ông tiếp xúc với nhiều Việt kiều, nhà yêu nước, nhân sĩ tiến bộ như luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh... và cùng các nhân sĩ trí thức thành lập “Hội đồng bào thân ái” tại Pháp. Trong khoảng thời gian này, chiêm nghiệm lại sự thành bại của mình và nhận thấy con đường cứu nước đối với nhân dân Việt Nam không thể theo khuynh hướng dân chủ tư sản, với tri thức nhạy bén và qua kết thân với nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc, Phan Châu Trinh đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin và có tầm nhìn xa về tương lai của Nguyễn Ái Quốc, kỳ vọng vào Nguyễn Ái Quốc, mà sau này nhà yêu nước Phan Châu Trinh nói: “Độc lập của nước Nam ta sẽ trông cậy vào Nguyễn Ái Quốc”.

Đài tưởng niệm Nhà yêu nước Phan Châu Trinh đặt trong khuôn viên Trường THPT Phan Châu Trinh, Quảng Nam. (Ảnh:baoquangnam.vn)

Tuy ở ngoài nước, nhưng tấm lòng hướng về Tổ quốc vẫn không nguôi trong con người của Phan Châu Trinh, ông tìm mọi cách để về nước hoạt động nhưng không được. Năm 1925, chính sách thuộc địa thay đổi, đặc biệt tình hình cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, nhà yêu nước Phan Châu Trinh trở về Việt Nam sau 14 năm ở Pháp. Nhưng do lao tâm, lao lực quá nhiều, bệnh cũ tái phát, ngày 24/3/1926, Phan Châu Trinh qua đời tại Sài Gòn trong vô vàn tiếc thương của nhân dân cả nước.

Nhà yêu nước Phan Châu Trinh đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho nhân dân, cho dân tộc. Từ bị giam cầm trong lao tù, vất vả lao động kiếm sống nơi đất khách quê người đến lúc trở về cõi vĩnh hằng, trong lòng ông vẫn mong cho dân tộc được độc lập, nhân dân được ấm no, hạnh phúc… Với tấm lòng yêu nước, thương dân ấy, nhân dân Việt Nam đã ghi tạc hình ảnh nhà yêu nước đi tiên phong trong phong trào canh tân, dân sinh, dân chủ./.

PV
Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực