Sign In

Cổng thông tin điện tử

Đảng Cộng sản Việt Nam

Đột phá tư duy đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển bứt phá trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

17:24 05/03/2025
Thế giới đang đổi thay với sự phát triển vượt bậc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số, đem đến nhiều thời cơ, thuận lợi mới, song cũng đặt ra không ít thách thức đối với nước ta trong quá trình phát triển. Thực tiễn này đòi hỏi chúng ta có sự đột phá tư duy trên nhiều mặt, trong đó có khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để có thể phát triển bứt phá trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước thăm khu trưng bày sản phẩm khoa học - công nghệ tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia _Ảnh: TTXVN

Luồng gió mới truyền cảm hứng cho cộng đồng khoa học, công nghệ

Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” là luồng gió mới truyền cảm hứng cho cộng đồng khoa học, công nghệ (KH, CN).

Nhìn lại hơn bốn thập niên hình thành và phát triển hệ thống chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam, kể từ khi ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 20-4-1981, của Bộ Chính trị “Về chính sách khoa học kỹ thuật” - nghị quyết đầu tiên của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật, có thể nhận định rằng Đảng ta luôn quan tâm việc phát triển khoa học, công nghệ. Đường hướng phát triển nền KH, CN non trẻ trong thời kỳ kiến thiết đất nước sau thống nhất đã có từ Đại hội IV với việc khẳng định cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Nghị quyết số 37-NQ/TW được xem là văn kiện đầu tiên của Đảng về một chính sách khoa học và kỹ thuật thống nhất, có hệ thống và tương đối hoàn chỉnh, góp phần chấm dứt thời kỳ phát triển KH, CN một cách tự phát, tản mạn, thiếu hiệu quả ở nước ta.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội trong nước, Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo việc đổi mới tư duy, phát huy vai trò quốc sách hàng đầu và nền tảng, động lực của KH, CN trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất phát điểm từ một nước nghèo, tái thiết sau chiến tranh, nhưng nhiều quan điểm, chủ trương tiến bộ về phát triển KH, CN của Đảng ta đã có tầm nhìn vượt thời gian và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Qua từng thời kỳ, các văn kiện “bản lề” của Đảng đã thực sự trở thành kim chỉ nam cho con đường phát triển KH, CN của đất nước và việc đổi mới tư duy, nhận thức luôn được chú trọng hàng đầu.

Sau Nghị quyết số 37-NQ/TW mang tính mở đường của Bộ Chính trị năm 1981 về chính sách khoa học và kỹ thuật, nhiều văn kiện quan trọng khác lần lượt ra đời, kịp thời theo sát yêu cầu và đòi hỏi mới trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, như Nghị quyết 26-NQ/TW, ngày 30-3-1991, của Bộ Chính trị, “Về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới”; Nghị quyết số 02-NQ/HNTW, ngày 24-12-1996, của Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, “Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”; Nghị quyết số 20/NQ-TW, ngày 1-11-2012, của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cùng sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đại hội XIII của Đảng khẳng định một trong các đột phá chiến lược để phát triển đất nước thời kỳ mới là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với đẩy mạnh phát triển KH, CN và đổi mới sáng tạo; đồng thời, nhấn mạnh cần tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên KH, CN, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao. Theo đó, tư duy về phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo trở thành một trong những trọng tâm lãnh đạo, điều hành của Đảng và Nhà nước, phù hợp với xu thế tiến bộ chung của khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Đây là lần đầu tiên lồng ghép vấn đề đổi mới sáng tạo như một lĩnh vực quan trọng cần đột phá phát triển, cùng với KH, CN và chuyển đổi số quốc gia.

Sự ra đời của Nghị quyết số 57-NQ/TW được cộng đồng KH, CN đón nhận như một luồng gió mới và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi cả nước bước vào năm 2025, năm bản lề của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, tổng kết 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng. Việt Nam đứng trước yêu cầu có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển KH, CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Trong hơn 40 năm qua, Nhà nước đã nỗ lực đưa chủ trương, đường lối sáng suốt của Đảng về phát triển KH, CN vào cuộc sống. Đạo luật cơ bản đầu tiên về KH, CN được ban hành năm 2000, sửa đổi toàn diện năm 2013 là Luật Khoa học và Công nghệ. Hiện nay, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo đang được Bộ Khoa học và Công nghệ xúc tiến soạn thảo trình Chính phủ, Quốc hội trong năm 2025, tiếp tục thể hiện nỗ lực trong công cuộc thể chế hóa quan điểm của Đảng thành cơ chế, chính sách có tính hành động trong thực tiễn. Cùng với đó là hệ thống can thiệp chính sách cụ thể, từ đầu tư phát triển tiềm lực KH, CN, cả về nhân lực, tài lực, hạ tầng nghiên cứu và thiết chế trung gian, cho đến hình thành bộ máy, cơ quan quản lý, điều phối hoạt động KH, CN từ Trung ương đến địa phương, thiết kế và triển khai cụm chương trình, dự án quốc gia trọng điểm về KH, CN 5 năm và 10 năm. Đặc biệt là hạ tầng mềm về cơ chế, chính sách đã không ngừng được hoàn thiện và đổi mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, giải phóng sức sáng tạo và nguồn lực với mục đích tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất thúc đẩy sự phát triển của KH, CN. Đây thực sự là một nỗ lực không ngừng nghỉ, được kế thừa và tiếp nối qua nhiều thế hệ người làm khoa học và quản lý KH, CN ở Việt Nam.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, có nhiều việc chúng ta coi là mới, là đổi mới của hôm nay trong quản lý hoạt động KH, CN, thực ra đã được các thế hệ đi trước nhận diện và đặt vấn đề giải quyết từ rất sớm. Nhiều việc đã thực hiện thành công. Nhưng cũng có việc, thậm chí đến nay vẫn còn loay hoay tháo gỡ. Điều này, một mặt, cho thấy tư duy và tầm nhìn đi trước thời đại của Đảng và các thế hệ làm công tác tham mưu chính sách KH, CN; mặt khác, đặt ra vấn đề về năng lực và hiệu quả của công tác thực thi, sự yếu kém và hạn chế trong quá trình vận dụng, đưa đường lối, quan điểm chỉ đạo tiến bộ của Đảng đi vào cuộc sống. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng hơn bao giờ hết, vấn đề cải thiện và bằng mọi giá nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ người làm khoa học, quản lý và thực thi chính sách KH, CN ở Việt Nam phải được quan tâm nghiêm túc và dành nguồn lực thỏa đáng để thực hiện.

Nghị quyết số 57-NQ/TW đã chỉ ra 7 nhóm giải pháp nhằm tháo gỡ nút thắt, hạn chế, yếu kém trong thực tiễn thi hành đường lối, chủ trương của Đảng về KH, CN, trong đó nhấn mạnh: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý và khuyến khích đổi mới sáng tạo, loại bỏ tư duy không quản được thì cấm. Chú trọng bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển KH, CN và đổi mới sáng tạo; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài. Đặc biệt, vấn đề đổi mới tư duy và nhận thức không chỉ dừng ở mức nâng cao như thường thấy ở các văn kiện trước đây, mà đòi hỏi mạnh hơn tới mức “đột phá về đổi mới tư duy” để tạo xung lực mới trong toàn xã hội về phát triển KH, CN và đổi mới sáng tạo.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan sản phẩm đổi mới sáng tạo tại Ngày hội Đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2024 _Ảnh: TTXVN

Đổi mới sáng tạo, đột phá tư duy để tạo xung lực mới trong toàn xã hội về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Bối cảnh thế giới với các vấn đề về địa - chính trị, căng thẳng thương mại, phân cực văn hóa, biến đổi khí hậu cũng buộc các chính phủ phải ứng phó kịp thời với thách thức về kinh tế, xã hội, an ninh, môi trường và công nghệ. Cùng với đó là cơ hội rộng mở về đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên thông minh, kỷ nguyên của công nghệ hội tụ và siêu trí tuệ. Đổi mới sáng tạo trở thành một nguồn lực mới cho tăng trưởng trong nền kinh tế toàn cầu mới. Trí tuệ nhân tạo, máy tính lượng tử, công nghệ sinh học và tiến bộ công nghệ sẽ thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng cuộc sống, giúp giải quyết thách thức toàn cầu về phát triển bền vững, nhưng cũng đặt ra nhiều quan ngại khi sử dụng công nghệ không đúng mục đích và tác động xã hội, đòi hỏi cả doanh nghiệp và người dân được trang bị năng lực thích ứng phù hợp.

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu phát triển nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo, điều đó có nghĩa là chúng ta cần chuyển đổi cách tiếp cận, từ chỗ chỉ lắp ráp, gia công sản phẩm “Made in Vietnam” phải trở thành một quốc gia có đủ năng lực đổi mới sáng tạo và chế tạo sản phẩm “Created in Vietnam”; từ một nền kinh tế thâm dụng lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên không tái tạo phải trở thành nền kinh tế được dẫn dắt bởi đổi mới sáng tạo, công nghệ và trí thông minh; từ quốc gia thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần trở thành quốc gia có đủ năng lực thu hút nguồn vốn con người, vốn trí tuệ. Điều này đòi hỏi đầu tư rất mạnh cho KH, CN, đổi mới sáng tạo và khu vực công nghiệp, doanh nghiệp đóng vai trò quyết định trong thương mại hóa kết quả nghiên cứu(1).

Vậy đổi mới sáng tạo thực chất là gì? Để hiểu đúng bản chất của đổi mới sáng tạo, nhiều học giả và nhà kinh tế nổi tiếng thế giới thường so sánh sự khác biệt giữa hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với đổi mới sáng tạo. Theo đó, hoạt động nghiên cứu và phát triển là việc đầu tư tiền và nguồn lực để tạo ra tri thức (công nghệ là một dạng tri thức), còn đổi mới sáng tạo là quá trình ứng dụng, đưa tri thức trở lại thành tiền và tạo ra giá trị gia tăng. Đổi mới sáng tạo gắn với quá trình biến đổi tri thức thành lợi ích kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, đổi mới sáng tạo thực chất là phạm trù liên quan tới con người và tư duy. Đổi mới sáng tạo phải trở thành nếp văn hóa của mỗi người dân, dám bước ra khỏi vùng an toàn để theo đuổi đam mê, suy nghĩ khác biệt và tôn trọng sự khác biệt, chấp nhận mạo hiểm và bao dung với thất bại. Trong tư duy quản lý hoạt động KH, CN lại càng cần “bình thường hóa thất bại”, vì thất bại là một phần tất yếu trên con đường mạo hiểm dấn thân để tìm tòi, sáng tạo. Quản lý và kiểm soát quá chặt sẽ hạn chế ý tưởng sáng tạo lớn trong khi điều chúng ta cần là ngày càng nhiều người dám dấn thân trên con đường nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đổi mới sáng tạo là vấn đề xuyên ngành, xuyên lĩnh vực, vì vậy văn hóa đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm cần được nuôi dưỡng, phát huy và bảo vệ trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Trong văn hóa đổi mới sáng tạo, tư duy mở là nhân tố tiên quyết để sẵn lòng chấp nhận cái mới và dám đầu tư cho ý tưởng sáng tạo ban đầu khi chưa rõ kết quả, hiệu quả và tác động. Cần tránh “hội chứng khủng long”(2) trong quản lý hoạt động KH, CN và đổi mới sáng tạo. Thái độ tự mãn với thành tựu đạt được sẽ khiến chúng ta, nhà khoa học và quản lý KH, CN tự triệt tiêu mọi động lực thay đổi, không chấp nhận cái mới, từ đó cản trở tiến bộ KH, CN và đổi mới sáng tạo.

Nghiên cứu khoa học tại Viện Công nghệ nano (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) _Ảnh: TTXVN

Phát triển vốn trí tuệ và nhân tài cho giai đoạn tăng tốc mới

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ ra vấn đề căn cốt trong định hướng “phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo” của đất nước. Thực chất, đó là vấn đề phát triển nguồn vốn con người, vốn trí tuệ và tài năng - vấn đề có ý nghĩa chiến lược quốc gia mà gốc rễ bắt nguồn từ nền tảng văn hóa, giáo dục và đào tạo, KH, CN thực mạnh. Để vươn lên chiếm lĩnh vị trí cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam cần có nhiều người giỏi, người tài làm việc ở cả khu vực công và tư, trong viện, trường, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước. Muốn vậy, cần thực hiện cơ chế thực tài với chính sách đột phá trong sử dụng người tài; lựa chọn, quy hoạch người lãnh đạo giỏi; thu hút tài năng quốc tế, đặc biệt là người Việt Nam ở nước ngoài về làm việc tại Việt Nam.

Cơ chế thực tài trao cơ hội công bằng cho người xứng đáng và cho phép chúng ta lựa chọn được người giỏi nhất có đủ năng lực giải quyết thách thức của nền kinh tế và KH, CN trong bối cảnh mới. Cơ chế thực tài cần được bảo đảm thực hiện bằng công cụ chính sách đồng bộ và có hiệu lực. Nhân sự được tuyển dụng trên cơ sở năng lực chuyên môn giỏi và được thăng tiến dựa trên năng lực và tiềm năng phát triển; người không đáp ứng tiêu chuẩn sẽ bị thải loại. Trong ươm tạo, phát triển và sử dụng tài năng, cần kết hợp đồng bộ giữa đào tạo và sử dụng. Bên cạnh nỗ lực triển khai đề án cử người đi đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước(3), cần quan tâm đúng mức đến việc sử dụng người trở về sau đào tạo. Đối với du học sinh, nghiên cứu sinh theo chế độ tự túc hay học bổng ngoài ngân sách, cũng cần có chiến lược quản lý, thu hút, sử dụng phù hợp. Việc quy hoạch và phát triển người tài để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo cần sự chuẩn bị từ sớm, từ xa, lựa chọn người giỏi nhất và dám chấp nhận, dám chịu trách nhiệm. Những người có tài và dám độc lập bày tỏ chính kiến khác biệt với số đông càng cần được trân trọng, vì họ có khả năng giúp sửa đổi, điều chỉnh chính sách theo chiều hướng tốt.

Giải pháp quan trọng nhất để thu hút người tài, đặc biệt trong lĩnh vực KH, CN là cần tạo ra một môi trường làm việc hấp dẫn, kết hợp đồng bộ giữa hạ tầng nghiên cứu thuận lợi, môi trường học thuật tiên tiến và hệ sinh thái đồng sáng tạo đa chức năng phục vụ nghiên cứu, làm việc và tiện ích sinh hoạt đối với nhà khoa học và gia đình họ. Chính sách về tiền lương và thu nhập nếu không có môi trường làm việc tốt sẽ thất bại trong ngắn hạn. Môi trường tốt đối với người tài còn bao gồm “yếu tố mềm”, như được tôn trọng và đối xử công bằng, được ghi nhận và tôn vinh, thậm chí được thử thách và tin dùng khi được giao công việc khó, có mục tiêu tham vọng. Ở góc độ quản lý nhà nước, việc bảo đảm môi trường tự do học thuật và tự chủ trong nghiên cứu, dỡ bỏ rào cản hành chính và khuyến khích văn hóa đổi mới sáng tạo, chấp nhận mạo hiểm và bình thường hóa thất bại trong khoa học cũng góp phần động viên người tài dấn thân trên con đường nghiên cứu, sáng tạo. Bên cạnh đó, cũng cần đòi hỏi trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của người tài và nhà khoa học. Trong lĩnh vực của mình, họ cần có trách nhiệm đào tạo lực lượng kế cận, trung thực và liêm chính trong khoa học, ý thức được trách nhiệm đóng góp trở lại cho cộng đồng và xã hội. Có thể nghiên cứu chính sách thúc đẩy sự di chuyển hai chiều nguồn nhân lực tài năng trong các khu vực hàn lâm, doanh nghiệp và nhà nước để bổ sung kịp thời kỹ năng cũng như năng lực cần thiết cho từng khu vực.

Đối với các tài năng quốc tế, đặc biệt là người Việt Nam ở nước ngoài, đã có rất nhiều nỗ lực chính sách được thực hiện trong những năm qua, nhưng chưa đủ khả thi để thu hút được nguồn lực trí tuệ này đầu tư về nước. Trong thời gian tới, cần có giải pháp khai thác tối đa và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực tại chỗ, trong nước; suy nghĩ thiết kế chính sách thu hút nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài về làm việc có thời hạn tại Việt Nam với tiêu chí và cơ chế khả dụng hơn, nhất là với đối tượng được mời về làm lãnh đạo trường đại học, viện nghiên cứu, giám đốc điều hành doanh nghiệp, nhà khoa học trẻ, chuyên gia cao cấp để xử lý vấn đề đột xuất phát sinh. Đối với từng đơn vị và tổ chức, điều này đòi hỏi trách nhiệm và tâm, tầm của người đứng đầu. Trong lĩnh vực KH, CN, chính sách nuôi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực trong nước cần được kết hợp thực hiện đồng thời với chính sách thu hút chuyên gia quốc tế và nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.

Việt Nam đang đứng trước cơ hội và thách thức rất lớn trong xu thế hội nhập và làn sóng cách mạng công nghiệp mới với xuất phát điểm và điều kiện còn nhiều khó khăn của một nước đang phát triển. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ giúp chúng ta chuyển hóa cơ hội và thách thức đó thành sức mạnh và nguồn lực để phát triển. Đổi mới sáng tạo, đột phá trong đổi mới tư duy, trọng vốn trí tuệ và nhân tài là các điểm nhấn then chốt liên quan tới nguồn lực con người mà chúng ta cần quan tâm chuẩn bị để thực hiện thành công Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Bước sang năm 2025, năm của những ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước, lực lượng KH, CN Việt Nam sẽ đồng hành cùng cả hệ thống chính trị quyết tâm đưa Nghị quyết số 57-NQ/TW nhanh chóng đi vào cuộc sống. Cơ hội và thách thức đan xen đòi hỏi nỗ lực gấp bội, nhưng với trí tuệ, lòng tự trọng và trách nhiệm đối với công việc, với đất nước của nhà khoa học Việt Nam ở cả trong và ngoài nước, sự ủng hộ và hợp tác của doanh nghiệp, người dân và toàn xã hội, chúng ta tin tưởng rằng, nền KH, CN nước nhà sẽ đạt được nhiều thành tựu hơn nữa, tạo xung lực mới đưa đất nước phát triển giàu mạnh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

--------------------------

 (1) Trong chu trình nghiên cứu và phát triển, từ khâu nghiên cứu đến khâu tạo ra sản phẩm mẫu cần khoảng 20% tổng kinh phí dự án, nhưng đến 80% kinh phí là cần cho giai đoạn hoàn thiện sản phẩm và thương mại hóa. Vì vậy, nguồn lực cho đổi mới sáng tạo cần được huy động mạnh từ khu vực doanh nghiệp và ngoài nhà nước.

(2) “Hội chứng khủng long” được sử dụng trong lĩnh vực quản trị đổi mới sáng tạo, chỉ sự tự mãn thái quá với thành tựu đạt được dẫn tới không chấp nhận cải tổ, thay đổi theo hướng tiến bộ hơn. Thuật ngữ này bắt nguồn từ nguyên nhân dẫn tới sự tuyệt chủng của khủng long - giống loài to lớn đứng đầu chuỗi thức ăn, tự cho mình là mạnh nhất, không linh hoạt thích ứng được nên đã bị tuyệt chủng từ khoảng 230 triệu năm trước.

(3) Đề án 322 giai đoạn 2000 - 2005 đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật trình độ tiến sĩ, thạc sĩ và đại học tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu nước ngoài hoặc phối hợp với nước ngoài để đào tạo. Đề án 911 giai đoạn 2010 - 2020 có mục tiêu đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ, phấn đấu đến năm 2020, đào tạo bổ sung được ít nhất 20 nghìn tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng, trong đó 10 nghìn tiến sĩ đào tạo ở nước ngoài tại các trường đại học có uy tín trên thế giới. Đề án 599 giai đoạn 2013 - 2020 đào tạo trình độ thạc sĩ đối với giảng viên cơ sở giáo dục đại học, cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc tại các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ, các Bộ, ngành và cơ quan nhà nước; đào tạo trình độ đại học đối với học sinh đạt giải Olympic quốc tế, học sinh có năng khiếu đặc biệt trong một số lĩnh vực, ngành, nghề đặc thù theo nhu cầu nhân lực trình độ cao; Đề án 2395 giai đoạn 2016 - 2025 đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH, CN là chuyên gia, nhóm nghiên cứu, bồi dưỡng sau tiến sĩ và cán bộ quản lý KH, CN.

Nguồn: Tạp chí Cộng sản điện tử

Link:https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/dot-pha-tu-duy-dua-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-phat-trien-but-pha-trong-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc#

Tag:

File đính kèm