Ngược dòng thời gian trở lại 61 năm trước, đất nước chúng ta vừa trải qua chiến tranh ác liệt, kinh tế khó khăn, thu nhập quốc dân thấp, sản lượng lương thực giảm nhưng tốc độ tăng dân số rất cao. Trong bối cảnh đó, ngày 26/12/1961, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 216/CP về việc sinh đẻ có hướng dẫn. Đây là dấu mốc lịch sử đánh dấu sự ra đời của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình. Chính sách này vừa thể hiện tầm nhìn mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước ta, vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Ngày 19/5/1997, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 26/12 hằng năm là Ngày Dân số Việt Nam nhằm tập trung sự quan tâm của toàn xã hội cho công tác dân số, điều chỉnh sự phát triển dân số cho phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, trước mắt và lâu dài.
Từ văn bản đầu tiên là Quyết định 216-CP, ngày 26/12/1961, sau này các văn bản mang tính toàn diện hơn được ban hành kịp thời giúp cho việc triển khai thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đạt hiệu quả cao như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, ngày 14/01/1993, rồi đến Chiến lược Dân số và Kế hoạch hóa gia đình đến năm 2000; Pháp lệnh Dân số năm 2003; Nghị quyết 47/NQ-TW, ngày 22/3/2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Pháp lệnh 08 sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh dân số… Đây là hành lang pháp lý đảm bảo cho việc triển khai thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình đạt hiệu quả.
|
Cô đỡ thôn bản tuyên truyền, tư vấn chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho đồng bào dân tộc huyện Mang Yang (Gia Lai). Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN |
Từ năm 2017 đến nay, nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình của Đảng và Nhà nước mang tính bước ngoặt được ban hành, như: Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân số trong tình hình mới; Nghị quyết số 137/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình Hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW; Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030. Bên cạnh đó, nhiều chương trình được phê duyệt và đưa vào triển khai thực hiện, như: Chương trình truyền thông dân số đến năm 2030; Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030; Chương trình củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến năm 2030; Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030; Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030; Chương trình củng cố và phát triển hệ thống thông tin chuyên ngành dân số đến năm 2030…
Có thể nói, việc ban hành Quyết định 216-CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc sinh đẻ có hướng dẫn đã đánh dấu sự ra đời của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở nước ta. Quyết định này đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Á tiến hành công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Kể từ đây người dân đã bắt đầu có ý thức hơn về vấn đề dân số và chấp nhận sinh đẻ có kế hoạch.
Trải qua 61 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Dân số đã đạt được nhiều kết quả to lớn, một trong những kết quả nổi bật đó là tốc độ gia tăng dân số đã được kiểm soát thành công, đạt mức sinh thay thế; cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực; phân bố dân số hợp lý hơn, chất lượng dân số được cải thiện... đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Điển hình của những thành tựu đạt được đó là: tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng lên đáng kể, từ năm 1989 đến năm 2021, tuổi thọ trung bình của Việt Nam liên tục tăng từ 65,2 tuổi lên 73,7, chất lượng dân số được cải thiện. Tầm vóc thể lực của người Việt Nam có bước cải thiện, từ năm 1993 đến nay, chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam tăng thêm 6,6 cm, đạt 168,1 cm ở nam (2020) và 156,2 cm ở nữ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng và tỷ suất tử vong trẻ em đã giảm 2/3; tỷ số tử vong mẹ giảm 3/4 so với năm 1990. Việt Nam khống chế thành công tốc độ gia tăng dân số, đạt mức sinh thay thế sớm hơn 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) đề ra và tiếp tục duy trì đến nay…
Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng, với khoảng 66 triệu người trong độ tuổi lao động. Đây là nền tảng và cơ hội vàng cho Việt Nam có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn được thế giới ngưỡng mộ ở công tác xóa đói, giảm nghèo, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình. Do làm tốt công tác này nên tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng tăng. Các bà mẹ, đặc biệt là các bà mẹ trẻ có điều kiện tham gia học tập, tham luận, nghiên cứu khoa học và công tác xã hội… nên tỷ lệ phụ nữ tham gia làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tham gia vào cấp ủy, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân các cấp ngày càng tăng. GDP bình quân đầu người tăng lên cũng có đóng góp không nhỏ của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Đặc biệt, thành công của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình trong suốt hơn nửa thế kỷ qua đã góp phần đạt và về đích trước thời hạn các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về nâng cao sức khỏe bà mẹ (MDG5) và giảm tử vong ở trẻ em (MDG4).
|
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em đã được cải thiện đáng kể trong 61 năm qua.
Ảnh: ĐT
|
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được, Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề dân số trong tình hình mới và cần có động thái về chính sách phù hợp để điều chỉnh. Trong đó, phải kể đến mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh và luôn ở mức cao, từ 109,8 bé trai/100 bé gái năm 2006 lên 113,8 bé trai/100 bé gái năm 2021; cả nước có 33 tỉnh, thành phố có mức sinh cao, chủ yếu ở tỉnh, thành phố miền núi phía Bắc (42% dân số); 21 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp, chủ yếu ở các tỉnh, thành phố phía Nam (39% dân số).
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số rất nhanh, chỉ số già hóa dân số tăng từ 35,9% năm 2009 lên 48,8% năm 2019, việc tận dụng thời kỳ cơ cấu dân số vàng chưa thực sự hiệu quả. Tỷ lệ tầm soát, chẩn đoán trước sinh, sơ sinh còn thấp…
Nhìn vào những kết quả đạt được, có thể khẳng định, trong 61 năm qua, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã được đẩy mạnh, triển khai toàn diện, đồng bộ trên tất cả các kênh truyền thông, tạo được sự đồng thuận trong toàn xã hội. Nhiều chương trình, đề án phục vụ công tác này được Chính phủ phê duyệt đã mang lại những hiệu quả tích cực đối với công tác dân số và phát triển.
Ghi nhận những thành tựu, đóng góp to lớn đó, Đảng và Nhà nước đã tặng thưởng ngành Dân số Huân chương Độc lập hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý, cũng như được cộng đồng quốc tế ghi nhận bằng Giải thưởng Dân số của Liên hợp quốc năm 1999. Những thành tựu to lớn này là sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức ngành Dân số, đặc biệt là sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ dân số cơ sở, trong đó lực lượng nòng cốt là các cộng tác viên dân số, được cả cộng đồng gọi tên thân thương “Những bước chân không mỏi” để đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người.
Kế thừa và phát huy những thành công trong 61 năm qua, ngành dân số và kế hoạch hóa gia đình phấn đấu triển khai thành công Nghị quyết 21 về công tác dân số trong tình hình mới, Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 và các chương trình đã được Chính phủ phê duyệt… Những điều này sẽ góp phần thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước, phát huy lợi thế cơ cấu "dân số vàng", giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân bố dân số, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong giai đoạn mới, chúng ta tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, phải quan tâm đầy đủ toàn diện về số lượng dân số, chất lượng dân số và cấu trúc dân số. Công tác dân số cần chú trọng và đầu tư nhiều hơn cho hoạt động truyền thông; giải quyết đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế-xã hội trong trung và dài hạn.
Việc xây dựng chính sách dân số cần lưu ý những thách thức mới về toàn cầu hóa, vấn đề nhập cư, đô thị hóa, già hóa dân số... Đây là vấn đề có ảnh hưởng đến tương lai và vận mệnh quốc gia. Theo đó, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Y tế cùng các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, đề xuất chiến lược dân số phù hợp với giai đoạn phát triển mới, ưu tiên nguồn lực, cơ chế chính sách để công tác dân số Việt Nam trong thời kỳ mới đạt hiệu quả lâu dài, lường trước mọi thách thức, đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Kỷ niệm 61 năm Ngày truyền thống ngành Dân số Việt Nam (26/12/1961 – 26/12/2022) và hưởng ứng Tháng hành động quốc gia về dân số năm 2022 với chủ đề “Nâng cao chất lượng dân số để phát triển đất nước nhanh và bền vững”, là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại chặng đường lịch sử vẻ vang nhưng vô cùng khó khăn, gian khổ và rất đỗi tự hào của ngành Dân số. Đặc biệt là đã chuyển hóa về nhận thức và hành động của đại bộ phận người dân về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Trong thời gian tới, tin tưởng chắc chắc rằng, ngành Dân số sẽ tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, truyền thống 61 năm của Ngành, luôn kiên định, đoàn kết, chủ động, sáng tạo, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần to lớn cho việc hiện thực hóa khát vọng hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam trong những thập niên tới./.