Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và những quyết định đi đến ngày tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Quốc dân đại hội, nhân dân Việt Nam đã nhất tề nổi dậy với chí dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được chính quyền trong toàn quốc. Cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19/8/1945), Huế (ngày 23/8/1945), Sài Gòn (ngày 25/8/1945). Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân.
Ngày 25/8/1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 27/8/1945, Chính phủ đã ra Lời tuyên cáo nêu rõ: “Chính phủ lâm thời… thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hòa chính thức”.
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Bản Tuyên ngôn khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố ngày 02/9/1945 đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Việc ban hành Hiến pháp, thành lập Chính phủ chính thức là một trong những nhiệm vụ hàng đầu để củng cố và tăng cường chính quyền nhân dân. Vì vậy, ngày 03/9/1945, tức là một ngày sau khi Nhà nước cách mạng ra đời, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống…”.
Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 14-SL quy định sẽ mở cuộc tổng tuyển cử để bầu Quốc hội. Sắc lệnh ghi rõ: “Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày 16, 17/8/1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thong đầu phiếu cử lên”. Tiếp đó, ngày 26/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 39-SL về thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL, ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín…
Việc chuẩn bị cho tổng tuyển cử diễn ra rất khẩn trương trong điều kiện thù trong, giặc ngoài, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội hết sức khó khăn, vừa kháng chiến ở miền Nam, vừa phải giải quyết những nhiệm vụ rất cấp bách hằng ngày đặt ra, vừa thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc; đồng thời lại vừa phải đấu tranh để chống lại những hành động phá hoại điên cuồng của chúng.
Cuộc tổng tuyển cử lúc đầu được dự kiến là ngày 23/12/1945, nhưng gặp phải sự chống đối của Việt Quốc, Việt Cách. Để thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải nhằm tạo bầu không khí ổn định cho tổng tuyển cử; đồng thời để có them thời gian cho công tác chuẩn bị, nhất là để các ứng viên có điều kiện nộp đơn và vận động tranh cử, ngày 18/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh hoãn cuộc tổng tuyển cử đến ngày Chủ nhật 06/01/1946.
Qua quá trình đàm phán, Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) đã thỏa thuận hợp tác và ủng hộ cuộc tổng tuyển cử. Trên cơ sở đó, ngày 24/12/1945, đại biểu của Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội) đã gặp nhau và cùng ký bản “Biện pháp đoàn kết”, trong đó có điều khoản ủng hộ tổng tuyển cử và kháng chiến, nhất trí về việc mở rộng Chính phủ lâm thời có đại diện của Việt Quốc, Việt Cách tham gia, thừa nhận 70 ghế cho họ trong quốc hội mà không qua bầu cử.
Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, nêu rõ tầm quan trọng và ý chí của dân tộc ta trong ngày bầu cử:
“Ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã:
Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ,
Kiên quyết chống bọn thực dân,
Kiên quyết tranh quyền độc lập
Ngày mai, dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình và gánh vác việc nước”.
Kết quả và ý nghĩa của cuộc tổng tuyển cử đầu tiên
Ngày 06/01/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên đã diễn ra trong cả nước, kể cả các vùng đang có chiến sự ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên… Ở Hà Nội, có 91,95% cử tri của 74 khu nội thành và 118 làng ngoại thành đã đi bỏ phiếu trong không khí tràn đầy phấn khởi của ngày hội dân chủ. Kết quả, 6 trong số 74 ứng cử viên đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng cử với số phiếu cao nhất (98,4%).
Ở các địa phương khác trong cả nước, cuộc tổng tuyển cử cũng được tiến hành sôi nổi. Riêng ở các tỉnh phía Bắc mặc dù phải đối với phó âm mưu phá hoại hết sức tinh vi và trắng trợn của kẻ thù, nhưng nói chung tổng tuyển cử diễn ra an toàn. Ở các tỉnh phía Nam, nhất là ở Nam Bộ, nhân dân đi bỏ phiếu rất đông, bất chấp bom đạn của thực dân Pháp. Nhiều nơi nhân dân phải đổi cả xương máu để thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình…
Như vậy, cả 71 tỉnh, thành trong cả nước có 89% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu, phổ biến là 80%, nhiều nơi đạt 95%. Trừ một số nơi bầu bổ sung, còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số.
Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946 được tiến hành theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là phổ thong, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Quốc hội đã cử ra Chính phủ chính thức, ấn định cho Việt Nam một Hiến pháp dân chủ. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam. Quốc hội Việt Nam ra đời vừa là thành quả, vừa là yêu cầu bức thiết của cách mạng. Quốc hội ra đời trong khói lửa của cuộc đấu tranh dân tộc gay gắt. Đó là Quốc hội của độc lập dân tộc, của thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân. Quốc hội đã hội tụ các đại biểu của cả ba miền Bắc - Trung - Nam, là ý chí của nhân dân cả nước. Quốc hội đã có đại diện của tất cả các thế hệ những người Việt Nam yêu nước đương thời, hội tụ đại biểu của tất cả các ngành, các giới, các giai cấp, tầng lớp xã hội từ công nhân, nông dân, nam giới, nữ giới cho đến những nhà tư sản, công thương gia, những nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa nổi tiếng, có đại diện của các thành phần tôn giáo trên đất nước Việt Nam, tất cả các thành phần dân tộc, của tất cả những người không đảng phái và đảng phái chính trị.
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Cuộc tổng tuyển cử diễn ra trong điều kiện cách mạng đứng trước thử thách “ngàn cân treo sợi tóc”, khó khăn chồng chất, lại diễn ra trong điều kiện nhân dân Việt Nam vừa thoát khỏi ách nô lệ. Tuy nhiên, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quyết định tổng tuyển cử và đưa cuộc tổng tuyển cử đến thành công. Đó là một quyết định dũng cảm, táo bạo, kịp thời và chủ động, xuất phát từ bản lĩnh chính trị nhạy bén, khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử cũng đã khẳng định niềm tin tuyệt đối của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tinh thần yêu nước của nhân dân ta; đồng thời, đó cũng là sự biểu thị khát vọng dân chủ của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Tỉnh Bắc Giang với cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên
Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, ngày 06/01/1946, nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia cuộc bầu cử Quốc hội. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, trên 90% công dân trong tỉnh từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt già, trẻ, nam, nữ, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội đã nô nức đi bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ cộng hoà. Nhiều cụ già tuổi cao, sức yếu cũng mừng vui trước sự đổi thay chưa từng có của đất nước, bắt con cháu đưa đến nơi bầu cử để tự tay bỏ lá phiếu bầu người đại diện cho nhân dân vào cơ quan quyền lực cao nhất của nước nhà. Dưới chế độ phong kiến, thực dân, phụ nữ luôn bị coi thường, chưa bao giờ được bình đẳng với nam giới, nay chị em được hưởng quyền tự do dân chủ, tự tay cầm lá phiếu để bầu cử. Đó là niềm vui và tự hào nhất của phụ nữ các dân tộc Bắc Giang cũng như cả nước.
Việc tuyên truyền, vận động và tổ chức bầu cử diễn ra tại Bắc Giang trong tình hình rất khó khăn, phức tạp. Quân đội Tưởng, các đảng phái phản động (Quốc dân Đảng, Đại Việt) và một số tầng lớp trên (tư sản, địa chủ) đã chống lại ta quyết liệt. Chúng tuyên truyền xuyên tạc chủ trương của Chính phủ và đả kích những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, với sức mạnh đoàn kết toàn dân, cuộc bầu cử vẫn tiến hành thắng lợi. Cử tri được giác ngộ cách mạng, biết phân biệt rõ bạn, thù, kẻ xấu, người tốt, đã sáng suốt lựa chọn, nên trong số 10 người ra ứng cử, chỉ có 4 đại biểu Ninh Văn Phan, Nguyễn Dương Hồng, Trần Kim Xuyến, Nguyễn Mạnh Khuông trúng cử vào Quốc hội khoá I đều do Mặt trận Việt Minh giới thiệu.
Qua cuộc bầu cử Quốc hội, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã thể hiện rõ sức mạnh đoàn kết nhất trí, kiên quyết chống giặc ngoại xâm, kiên quyết bảo vệ chủ quyền dân tộc. Đó chính là đòn phủ đầu đánh mạnh vào âm mưu chia rẽ của kẻ thù, góp phần nâng cao uy tín của chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh.
Ngô Toàn