Giá trị chuỗi sản xuất, chế biến nghành hàng chủ lực (chè, chuối, dứa, dược liệu, quế, lợn, kinh tế đồi rừng) năm 2024 ước đạt trên 11.145 tỷ đồng; trong đó giá trị sản xuất chiếm 78% và giá trị gia tăng sau chế biến, đóng gói tại các nhà máy, xưởng sản xuất chiếm 22%. Giá trị sản xuất tăng 4.135 tỷ đồng so với năm 2021, chiếm khoảng 55,4% tổng giá trị sản xuất ngành sản xuất nông nghiệp, bằng 100,73% mục tiêu đến năm 2025.
Trong 10 tháng đầu năm 2024, một số cây trồng chủ lực có diện tích/sản lượng tăng so với cùng kỳ như: Cây dược liệu 4.246 ha/17.500 tấn; cây chè 8.545 ha/49.050 tấn; cây chuối 2.265 ha/34.036 tấn; cây dứa 2.358 ha/44.150 tấn; cây quế 60.674 ha. Tổng đàn lợn 10 tháng đầu năm gần 458.000 con, đạt 76,3% mục tiêu Nghị quyết đến năm 2025. Vùng nguyên liệu gỗ rừng trồng tập trung phục vụ chế biến lâm sản ước đạt 92.200 ha, khai thác gỗ đạt 88.429,6 m3; khai thác lâm sản ngoài gỗ 84.883,1 tấn (măng tươi, các loại hạt...).
Vùng trồng chuối tại huyện Bảo Thắng.
Thực hiện chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang cây trồng chủ lực cả năm ước đạt 2.267 ha, bằng 88,9% Kế hoạch. Lũy kế từ đầu nhiệm kỳ đến nay đạt 8.676 ha, bằng 67,2% mục tiêu Nghị quyết. Hiện nay các địa phương đang tích cực vận động Nhân dân chuyển đổi các diện tích cây trồng kém hiệu quả sang cây trồng có giá trị kinh tế nhằm đảm bảo kế hoạch tỉnh giao.
Đối với các ngành hàng chủ lực, năm 2024 đã thực hiện chế biến 06/07 sản phẩm chủ lực, khối lượng thành phẩm sau chế biến đạt 1.066 tấn dược liệu; 12.972 tấn chè khô; 2.220 tấn quả dứa; 33.600 tấn thịt lợn giết mổ sử dụng tại chỗ và 2.100 tấn thịt lợn đưa vào chế biến (xúc xích, thịt xông khói...); khoảng 13.000 tấn vỏ/bột quế và 500 tấn tinh dầu quế; trên 40.000 m3 gỗ sơ chế và 100 tấn than viên nén mùn cưa. Đối với ngành hàng chuối, hiện nay vẫn xuất bán trực tiếp quả tươi không qua chế biến và đang thực hiện các thủ tục pháp lý để sớm hoàn thành xây dựng nhà máy chế biến sợi chuối tại huyện Bảo Thắng.
Toàn tỉnh hiện có 44,2 ha được chứng nhận VietGAP còn hiệu lực; 5.013,2 ha được chứng nhận hữu cơ; có 157 ha/11 loại cây dược liệu đạt tiêu chuẩn GACP-WHO; 22 cơ sở sản xuất tiên tiến tương đương chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; 105 cơ sở sản xuất, chế biến xây dựng và công bố 293 bản tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm thực phẩm; cấp 12 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu (11 mã số chuối, 01 mã số chè) và 04 mã vùng trồng nội tiêu (01 mã vùng chuối, 03 mã vùng chè); 11 cơ sở đóng gói nông sản phục vụ cho xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc; xây dựng được 85 nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, 02 chỉ dẫn địa lý...
Hiện Lào Cai có 13 chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chủ lực, diện tích theo chuỗi giá trị đạt 4.326 ha với 6.150 hộ tham gia liên kết. Trên 160 chuỗi cung ứng nông sản an toàn, 100% các sản phẩm theo chuỗi nông sản an toàn đã xác nhận được cập nhật quản lý trên Hệ thống phần mềm quản lý chuỗi. Đến nay có 107 doanh nghiệp/hợp tác xã, 331 dòng sản phẩm được minh bạch thông tin, rõ nguồn gốc xuất xứ trên Hệ thống minh bạch thông tin truy xuất nguồn gốc điện tử nông sản. Hệ thống hỗ trợ xúc tiến thương mại các sản phẩm nông nghiệp với 239 doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân và 440 sản phẩm.
Hệ thống hỗ trợ xúc tiến thương mại các sản phẩm nông nghiệp Lào Cai.
Trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện có 84 dự án do các doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp với tổng vốn đăng ký trên 6.718 tỷ đồng; tổng diện tích đất sử dụng trên 19.881 ha thuộc các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và chế biến nông, lâm sản. Trong 10 tháng năm 2024, tỉnh đã thu hút được 07 dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và 12 dự án hiện đang nghiên cứu, đề xuất đầu tư.
Các dự án đầu tư vào nông nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung tại huyện Bảo Yên, Bảo Thắng, Văn Bàn: (1) Dự án đầu tư chăn nuôi lợn nái, lợn thịt theo hướng an toàn sinh học của Công ty TNHH Thương mại MTV Hòa Phát tại Bảo Thắng; (2) Dự án đầu tư chăn nuôi lợn công nghệ cao của Công ty Cổ phần đầu tư chăn nuôi công nghệ cao Quang Minh tại Văn Bàn; (3) Dự án nhà máy sản xuất sợi dệt và tinh bột chuối Musa Golden Lào Cai tại Bảo Thắng; (4) Dự án trang trại chăn nuôi lợn sinh sản công nghệ cao khép kín của Công ty TNHH Đầu tư chăn nuôi công nghệ cao Gia Hưng tại Bảo Thắng; (5) Dự án trang trại chăn nuôi lợn thịt công nghệ cao của Công ty Cổ phần Thịnh Phát Kim Sơn 1 tại Bảo Yên; (6) Dự án nhà máy sản xuất tinh dầu quế Kim Sơn của Hợp tác xã sản xuất Kim Sơn tại Bảo Yên; (7) Dự án xây dựng nhà máy chế biến nông lâm sản xuất khẩu của Công ty Prosi Thăng Long tại Bảo Yên.
Đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư vào nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Phát triển nông nghiệp theo các vùng sinh thái được quan tâm thực hiện. Vùng sinh thái phía Tây tập trung phát triển các cây trồng vùng dược liệu 620 ha, cây ăn quả ôn đới 1.068 ha, rau trái vụ vùng cao 1.277,5 ha, hoa cao cấp 275 ha; chăn nuôi gia súc, cá nước lạnh, các vật nuôi đặc sản có giá trị kinh tế cao; bảo vệ và phát triển rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, bảo tồn thiên nhiên Vườn quốc gia Hoàng Liên, Khu Bảo tồn thiên nhiên Bát Xát. Vùng sinh thái núi cao Đông Bắc hình thành vùng sản xuất dược liệu tập trung 490 ha, vùng sản xuất chè 7.303,4 ha, vùng cây ăn quả; tập trung chăn nuôi gia súc, gia cầm; quản lý bền vững toàn bộ diện tích rừng hiện có; phát triển rừng sản xuất theo hướng đầu tư cây trồng đa mục đích (quế, hồi, dẻ ăn quả...). Vùng sinh thái phía Nam hình thành một số vùng chuyên canh như cây chè 794 ha, cây ăn quả nhiệt đới trên 2.750 ha và một số cây trồng tiềm năng; chuyển đổi mạnh hình thức phát triển chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi tập trung; phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với bảo vệ và phát triển rừng bền vững; chuyển đổi cơ cấu giống, trồng cây đa mục đích (quế, bồ đề...), chú trọng thâm canh rừng gắn với khai thác lâm sản ngoài gỗ… Đồng thời các địa phương đẩy mạnh phát triển các ngành hàng tiềm năng như: cây ăn quả ôn đới, cây rau, cây hoa, cây quýt, cây dâu tằm và một số sản phẩm đặc hữu như: Cây hồng không hạt tại Bảo Yên, Văn Bàn; cây bưởi tại Bảo Thắng, Bảo Yên; cây Hoàng Sin Cô tại huyện Bát Xát; cây Măng tại huyện Văn Bàn...

Áp dụng thiết bị công nghệ tại vùng chuyên canh cây chè.
Năm 2024 mặc dù còn gặp khó khăn, đặc biệt hoàn lưu cơn bão số 3 đã gây ra nhiều thiệt hại song với sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, UBND tỉnh cùng với sự vào cuộc của hệ thống chính trị, nông dân toàn tỉnh; sản xuất nông nghiệp đạt kết quả tương đối khả quan. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp ước hết năm 2024 đạt gần 15.700 tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng ngành ước đạt 2,61%. Giá trị thu nhập/ha đất canh tác ước năm 2024 đạt 97,5 triệu đồng; tỷ lệ che phủ rừng ước đạt 59,2%.
Thời gian tới, để tiếp tục thực hiện hiệu quả và đạt các mục tiêu tại Nghị quyết 10-NQ/TU ngày 26/8/2021; cấp ủy, chính quyền các cấp cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền về các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết và nội dung, định mức chi thực hiện các Chương trình MTQG. Tăng cường kết nối, hợp tác, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa đạt tiêu chuẩn chất lượng đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Tập trung phát triển các ngành hàng chủ lực gắn với chế biến để đa dạng sản phẩm (chè ô long, dứa đóng hộp, quế ống sáo…). Đẩy mạnh thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu, tiếp thị các mặt hàng chủ lực của tỉnh như quế, chè… sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu…/.
Thanh Huyền