Bên cạnh những giá trị triết lý trong nội dung tranh dân gian, một đặc trưng nổi bật thể hiện tư duy cảm thụ của người Việt, phản ánh qua các thời kỳ phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam, đó là nghệ thuật trang trí phục vụ đời sống dân sinh của dòng tranh dân gian.
Trong số các dòng tranh tiêu biểu của nước ta, tranh Kiếng Nam bộ là sản phẩm thủ công in đậm tính mỹ thuật, thẩm thấu đời sống, văn hóa của người dân Nam Bộ. Tranh Kiếng Nam Bộ đã xuất hiện trong cung đình Huế từ thời Nguyễn (triều Minh Mạng, Thiệu Trị). Những năm 1920 nghề làm tranh Kiếng từng rất được ưu chuộng tại khu vực miền Trung, sau đó cùng với các ngành nghề thủ công mỹ nghệ khác, tranh Kiếng đã có những bước phát triển vượt bậc.
Khoảng năm 1940-1950, dòng tranh này có mặt tại khắp lục tỉnh Nam kỳ và nhiều vùng miền cả nước. Trong hơn một thế kỷ phát triển loại hình nghệ thuật này đã hình thành nhiều dòng tranh nổi tiếng với phong cách và đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu là các dòng tranh Kiếng Khơ Me - Nam bộ (tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng), dòng tranh Lái Thiêu (Thủ Dầu Một - Bình Dương), dòng tranh Chợ Lớn (Sài Gòn).
Tranh Kiếng Nam bộ trở thành một sản phẩm không thể thiếu trong không gian sống của người dân Nam bộ, việc treo tranh Kiếng trong nhà đã hình thành nét văn hóa tao nhã của người dân nơi đây. Tranh Kiếng có nhiều chủng loại đa dạng: Tranh thờ tổ tiên, tranh Thần, Phật, tranh chúc tụng, tranh cảnh vật trang trí nội thất.... Ở đó có loại vẽ thuần bằng sơn màu đa sắc (thêm ngân nhũ và kim nhũ) hoặc kết hợp với kỹ thuật tráng thủy, độc đáo nhất là tranh Kiếng gắn ốc xà cừ. Tranh Kiếng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và mỹ thuật của công chúng khắp các thôn xã từ miền Đông Nam bộ đến miền Tây Nam bộ và trở thành loại hình nghệ thuật dân gian phát triển cùng một giai đoạn lịch sử của đất nước.
|
Một bức tranh kiếng Nam bộ vui tươi, mang đậm dấu ấn văn hóa của người dân Nam bộ, những năm 1940. |
Nhắc về tranh dân gian Việt Nam, nhiều người thường biết tới dòng tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống nhưng ít ai biết rằng, nền Mỹ thuật nước ta đã từng có dòng tranh Thập vật mang tính “bác học”, được chế tác từ các làng, chùa ở vùng châu thổ Bắc bộ, nội dung tranh thể hiện đời sống tín ngưỡng của người Việt trong chế độ phong kiến.
Theo các tư liệu Bảo tàng Mỹ thuật, tranh Thập vật rất thịnh vào giai đoạn từ thời Lê - Trịnh qua Nguyễn đến thời Pháp thuộc, suy thoái vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ XX. Vào đầu thế kỷ XXI, đất nước bước vào thời kỳ hội nhập, đời sống văn hóa phát triển, những người làm công tác văn hóa, các họa sỹ, nhà nghiên cứu có điều kiện nhìn nhận, đánh thức dòng tranh dân gian này, giúp công chúng cảm nhận vẻ đẹp văn hóa, những thông điệp về đạo đức, luân lý và tín ngưỡng của các bậc tiền nhân.
Hòa quyện với các dòng tranh dân gian khác tranh Thập vật góp phần cho bức tranh văn hóa Việt Nam thêm đa dạng và lung linh sắc màu. Qua đó thấy, để tranh dân gian tồn tại và phát triển cần có thị trường tiêu thụ. Mỗi dòng tranh tương ứng với mỗi đặc điểm và số phận khác nhau. Những số phận ấy gợi ý để có những phương thức bảo tồn, phát triển phù hợp với mỗi dòng tranh dân gian trong đời sống đương đại.
Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Thanh Mai đã đề xuất cần đưa nghệ thuật truyền thống, trong đó có tranh dân gian vào trường học để giúp các em tìm hiểu, nhận biết được cái đẹp, từ đó yêu thích, có trách nhiệm với giá trị văn hóa truyền thống và trong tương lai sẽ trở thành những lớp khách hàng tiềm năng của dòng tranh này. Các giải pháp bảo tồn và phát triển tranh dân gian đang góp phần thiết thực vào phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam.