Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta; là vấn đề chiến lược đảm bảo quyết định sự thành công của cách mạng; là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta. Từ thực tiễn hoạt động và lãnh đạo cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng, đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng trong lịch sử, vị trí chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân trong các thời kỳ của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
Trong các thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định, đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa việc nhận thức các vấn đề mang tính chiến lược này, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết nhằm tăng cường, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới. Trong các Nghị quyết của Đảng đều khẳng định quan điểm của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc với các nội dung chính như sau: Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là: Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến, là điểm hội tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy, Đảng luôn thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời luôn tin tưởng vào ý chí cách mạng của nhân dân, vào sức mạnh của nhân dân, vào sự hòa quyện giữa ý Đảng với lòng dân.
Phát biểu bế mạc tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) ngày 8/10/2023 vừa qua, nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa nêu rõ: "Từ khi có Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được xác định là đường lối chiến lược của Đảng; là nguồn sức mạnh, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc làm điểm tương đồng.
Trong thời kỳ phát triển mới, cần tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến, góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đất nước ta đang bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đây là khoảng thời gian đất nước, dân tộc phải vươn lên mãnh liệt, phấn đấu thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược, tạo sự phát triển vượt bậc ở một tầm cao mới, trình độ mới, chất lượng mới, xác lập vị thế quốc gia trên trường quốc tế, tạo nền tảng cho bước phát triển đột phá kế tiếp. Đây sẽ là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc.
|
Tổng Bí thư Tô Lâm với Nhân dân xóm Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng ngày 10/6/2024
(Ảnh: Văn phòng Chủ tịch nước cung cấp)
|
Trong kỷ nguyên mới, mọi người dân Việt Nam đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước. Chính vì vậy, củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh vô địch của đại đoàn kết toàn dân là một yêu cầu tất yếu khách quan và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu có ý nghĩa quyến định.
Củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng với một số giải pháp toàn diện, đồng bộ, nhất quán sau đây:
Trước hết, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính tất yếu khách quan, giá trị, vai trò, vị trí, ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu, nội dung của việc tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn khảng định: Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta; là vấn đề sống còn của cách mạng. Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đảng ta luôn khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa ý Đảng - lòng dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp Nhân dân, đó cũng là Đảng luôn xác định vị trí chiến lược và nhân tố có ý nghĩa quyết định của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đối với sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nhận thức về đại đoàn kết toàn dân không chỉ dừng lại ở nhận thức về tính tất yếu khách quan, vị trí chiến lược của nó mà còn phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc về yêu cầu, nội dung, điều kiện đảm bảo và phương thức thực hiện để củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới. Có như vậy mới biến tư tưởng thành hiện thực cuộc sống.
Thứ hai, cần nhận rõ những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững. Phấn đấu đến năm 2030 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau. Sự nghiệp đổi mới trong những năm tới có nhiều cơ hội để phát triển. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
Thứ ba, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc hoàn thiện các chủ trương, chính sách, thể chế hóa mục tiêu, nội dung, giải pháp và phương thức hoạt động của các thiết chế xã hội nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Thực tiễn cách mạng nước ta đã chỉ rõ: để đoàn kết toàn dân tạo ra sức mạnh vô địch cho cách mạng thì điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là Bộ tham mưu chiến lược, định ra chủ trương, đường lối đúng, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đó chính là yêu cầu và điều kiện tiên quyết cơ bản để đại đoàn kết một cách tự giác, tập hợp bền vững các lực lượng xã hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo.
Cùng với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cần nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước trong việc đề ra và thực hiện nhất quán các chính sách, cơ chế, thể chế hóa các yêu cầu, nội dung, phương thức tăng cường đại đoàn kết toàn dân. Cùng với đó là phải nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên, các thiết chế xã hội để đảm bảo cho việc thực thi có hiệu quả các yêu cầu, nội dung, phương thức tăng cường, phát huy sức mạnh của đại đoàn kết có hiệu quả cao nhất. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, các tổ chức, thiết chế xã hội nhằm nâng cao chất lượng công tác vận động, tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng Nhân dân và các tầng lớp xã hội hướng vào tăng cường, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể Nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên. Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể Nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội. Vì vậy, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, các thiết chế xã hội là một nhu cầu bức thiết có ý nghĩa và tác dụng vô cùng to lớn trong củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Thứ tư, hoàn thiện và tăng cường nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; giải quyết tốt mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; xử lý tốt mối quan hệ nghĩa vụ, quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, dân tộc, tôn giáo vì mục đích chung nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của chế độ ta. Hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là yêu cầu khách quan vừa là mục tiêu, nội dung cơ bản, điều kiện cần và đủ để tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới. Cần khẳng định và thực hiện nhất quán, thực chất vấn đề có tính nguyên tắc: lấy dân làm gốc, phát huy quyền làm chủ của dân, nguồn lực nhân dân, thực hiện đoàn kết toàn dân; lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng và do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cần thực hiện nhất quán, có hiệu quả phương châm Dân biết, dân bàn, dân làm, dân thụ hưởng và dân kiểm tra giám sát.
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt cần thực hiện phương châm “cầu đồng tồn dị”; mặt khác, cần thực hiện đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết và phải ngăn ngừa tình trạng đoàn kết xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định và luôn tuân thủ là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng ta để tìm ra những phương pháp tốt nhất thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, bốn phương vô sản đều là anh em và chỉ có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Kế thừa tư tưởng đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã phát triển, làm sáng tỏ hơn, đầy đủ hơn và vận dụng sáng tạo vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho tự do, dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế giới.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta kế thừa và phát triển thực hiện thành công là một nhân tố quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, ngày nay cần được tiếp tục phát huy tốt hơn để nước ta bước vào một kỷ nguyên mới rạng rỡ hơn, đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
Trong thời đại ngày nay, để đất nước có thể phát triển vững mạnh thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xa hội và mở rộng quan hệ quốc tế, Đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế là yêu cầu tất yếu khách quan, có quan hệ biện chứng tạo tiền đề cho nhau và đòi hỏi lẫn nhau. Điều đó được quy định bởi 2 yếu tố: thế giới ngày nay các dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, không thể tồn tại và phát triển một cách đơn độc, cách biệt; đồng thời chúng ta đang có một cộng đồng người Việt rất đông đảo ở nhiều nước trên thế giới, là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam và là một lực lượng, một nhóm đối tượng quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
Thứ sáu, đấu tranh kiên quyết, thường xuyên chống cấc quan điểm và hành động của các thế lực thù địch phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân trong kỷ nguyên mới.
Hiểu rõ vai trò, vị trí, sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc đối với cách mạng Việt Nam, nên trong suốt chiều dài lịch sử và hiện nay, các thế lực thù địch đã thực hiện rất nhiều âm mưu, thủ đoạn, lực lượng và phương tiện khác nhau để chống phá khối đại đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy, để củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong kỷ nguyên mới, đi đôi với các giải pháp xây dựng chúng ta cần đấu tranh phòng chống sự phá hoại của các thế lực thù địch một cách thường xuyên, kiên quyết và có hiệu quả.
Cuộc đấu tranh này phải được tiến hành một cách chủ động, kiên quyết, kiên trì bằng tất cả các lực lượng và phương tiện. Đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Âm mưu, thủ đoạn chống phá khối đại đoàn kết toàn dân của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi và xảo quyệt. Vì vậy, từng con người, từng tổ chức, từng lực lượng cần luôn nêu cao cảnh giác và có biện pháp đấu tranh ngăn chặn và loại bỏ những nhân tố tiêu cực ảnh hưởng đến đại đoàn kết toàn dân.
Các giải pháp trên đây là hệ thống thống nhất, toàn diện, có mối quan hệ biện chứng với nhau, đòi hỏi và tạo tiền đề cho nhau; cần được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và thực hiện nhất quán, đúng thực chất của cả hệ thống chính trị, trong từng tổ chức và cả từng người dân; có như vậy thì đại đoàn kết toàn dân mới có thể được thường xuyên củng cố, tăng cường và phát huy hết sức mạnh trong việc thực hiện mục tiêu mà Đảng ta đã xác định trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.