Xây dựng chính sách đãi ngộ đối với cô đỡ thôn, bản

Thứ năm, 16/03/2023 16:05
(ĐCSVN) – Cô đỡ thôn, bản là nhân lực được đánh giá cao trong chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, phụ cấp cho cô đỡ thôn, bản hiện còn rất thấp hoặc không có, khiến nhiều người bỏ nghề đi kiếm việc khác. Những người trụ lại phần lớn đều làm vì “tình yêu nghề”.

Tại Hội nghị vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn, bản do Bộ Y tế vừa tổ chức, cô đỡ thôn, bản Lò Thị Luấn (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) cho biết, giao thông ở miền núi rất khó khăn, bản xa nhất cách trạm y tế xã 18km, phải đi bộ nhiều giờ đồng hồ, nhưng từ năm 2020 đến nay, phụ cấp cho y tế thôn, bản bị cắt hoàn toàn, tiền đi lại, xăng xe không có, nên ảnh hưởng nhiều đến triển khai công việc hàng ngày. Trước đó, chính sách cô đỡ thôn, bản hoạt động từ 2013-2019, nhưng cô đỡ thôn, bản cũng chỉ nhận được phụ cấp 550.000 đồng/tháng từ việc kiêm nhiệm này.

Cô đỡ thôn, bản thăm khám, tuyên truyền, tư vấn chăm sóc sức khỏe sinh sản cho đồng bào dân tộc huyện Mang Yang (Gia Lai). Ảnh: TTXVN 

Chị Lò Thị Đường (huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên) chia sẻ, không ít lần chị phải rất vất vả mới thuyết phục được sản phụ có nguy cơ cao đến cơ sở y tế để thăm khám và sinh nở. Có đêm đang ngủ thì có điện thoại nhờ hỗ trợ sản phụ đẻ. Đường trơn, trời mưa, chị phải nhờ chồng chở đi. Chồng chị bảo, mỗi tháng phụ cấp có 447.000 đồng mà đi đêm đường rừng, vắng, nguy hiểm đến tính mạng, nhỡ ngã xe giữa đêm thì sao? Đi làm thuê 1 ngày được 200.000 đồng, 2 ngày là đủ tiền lương cả tháng rồi? Nhưng chị vẫn "xắn tay áo" để giúp đỡ bà con dân bản.

Còn cô đỡ Vàng Thị Thiêm (dân tộc Nùng, thôn Nàn Lũng, Nàn Ma, Xín Mần, Hà Giang) cho biết, suốt 12 năm qua, chị gắn mình với công việc cô đỡ. Đảm trách quản lý 3 thôn xa lắc tại huyện Xín Mần, có những hôm chị phải cuốc bộ cả chục cây số đến nhà thai phụ thăm khám, tư vấn. Mất cả ngày đi đường, khi quay về tới nhà trời tối mịt, nhưng phụ cấp chưa đến 700.000 đồng/tháng, nhiều lúc chồng chị Thiêm khuyên chị bỏ nghề. “Tôi làm vì tình yêu nghề thôi, chứ phụ cấp không đủ sống. Công việc lại phải đi đêm tối, vất vả. Hôm trước mượn xe máy của chồng đi đến nhà sản phụ, trên đường bị ngã hỏng xe mà chưa có tiền sửa”, chị Thiêm kể.

Trong 12 năm qua, chị Thiêm không nhớ mình đã đỡ đẻ cho bao nhiêu ca, nhưng ấn tượng nhất với chị là những ca đẻ rơi dọc đường. “Nhận được tin báo có ca vỡ ối chuẩn bị sinh dọc đường, tôi mang đồ nghề tức tốc tới ngay. Đứa bé sau khi sinh không khóc được, tím tái, người nhà sản phụ nói: “đứa trẻ chết rồi, đừng làm gì nữa”, nhưng tôi vẫn cố gắng vận dụng hết những kiến thức và kinh nghiệm, hút mũi đờm, xoa bóp, ấn ngực. 15 phút sau trẻ mới hồng hào dần và cất tiếng khóc. Đến giờ thằng bé cũng gần 10 tuổi rồi, mỗi lần gặp, mẹ bé lại nhắc: “Nếu không nhờ cô, thằng bé chết rồi!”.

Theo báo cáo của các địa phương, kết quả khảo sát năm 2021 cho thấy, tại 18 tỉnh miền núi khó khăn có tới 4.346 thôn bản cần có cô đỡ, vì cô đỡ thôn, bản có sự đáp ứng tại chỗ ngay lập tức, liên tục và miễn phí đối với các bà mẹ và trẻ em ở những vùng khó khăn.

Trong khi đó, hiện cả nước chỉ có 1.549 cô đỡ đang hoạt động, đạt tỉ lệ bao phủ 30,31%. Đặc biệt, tại các tỉnh miền núi khó khăn, như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Kon Tum, Gia Lai vẫn còn nhiều thôn bản có tỉ lệ tự sinh tại nhà vẫn rất cao (trên 60%).

Ông Đinh Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe bà mẹ - trẻ em (Bộ Y tế) cho biết, chỉ có cô đỡ thôn, bản mới có thể tiếp cận, chăm sóc bà mẹ tại địa phương ngay tại chỗ, vì bà con dân tộc thiểu số quan niệm mọi chăm sóc liên quan đến phụ nữ mang thai, sinh đẻ là chuyện riêng tư, chỉ có chồng, phụ nữ trong nhà, hoặc những người thân thiết mới có thể trao đổi được. Tuy nhiên, đến nay việc thực thi các chính sách cho cô đỡ thôn bản giữa các địa phương có sự khác nhau, khiến việc duy trì hoạt động của đội ngũ này gặp nhiều khó khăn. Nhiều địa phương không bố trí kinh phí hỗ trợ cho cô đỡ thôn, bản hoạt động.

 Cô đỡ thôn, bản chuyển thông tin của cán bộ y tế cho bà mẹ bằng tiếng dân tộc. Ảnh: TL

Cô đỡ thôn, bản là những người sinh sống tại cộng đồng dân tộc thiểu số, sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình để truyền đạt cho người dân thôn bản những thông tin quan trọng về chăm sóc sức khỏe, đồng thời cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn ngay tại thôn bản.

Để trở thành cô đỡ thôn, bản, mỗi học viên phải trải qua quá trình học tập ít nhất là 6 tháng theo chương trình và nội dung đào tạo của Bộ Y tế. Với kiến thức, kỹ năng được đào tạo và thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ thôn, bản có thể chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện các tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện các kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời.

Theo Bộ Y tế, đến nay, toàn quốc có 3.077 cô đỡ thôn, bản được đào tạo, nhưng đến 31/1/2023 đã có 1.528 cô ngừng hoạt động do không có kinh phí. Hiện tại, số cô đỡ được hưởng phụ cấp đã giảm xuống chỉ còn 911 người, trong đó có 732 người kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn, bản.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho rằng, để thu hẹp sự cách biệt lớn về sức khỏe giữa các khu vực địa lý, giữa các nhóm dân tộc, nhất là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, vai trò của các cô đỡ thôn, bản tại các vùng miền núi khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là không thể phủ nhận. Tuy nhiên người đứng đầu ngành Y tế cũng phải thẳng thắn chỉ ra rằng: Mặc dù nước ta đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để duy trì, củng cố và phát triển đội ngũ cô đỡ thôn, bản, nhưng việc thực thi các chính sách còn có sự khác nhau giữa các địa phương, dẫn tới việc duy trì hoạt động của đội ngũ cô đỡ gặp nhiều khó khăn, thậm chí nhiều địa phương không bố trí kinh phí hỗ trợ cho cô đỡ hoạt động.

Phải khẳng định rằng, cô đỡ thôn, bản là đội ngũ rất quan trọng, là những cánh tay nối dài của ngành Y tế đi đến tận thôn, bản, hộ gia đình để hỗ trợ chị em phụ nữ trong quá trình thai sản. Vì vậy, mong các cô đỡ thôn, bản khắc phục các khó khăn, tiếp tục phát huy các kiến thức, kỹ năng của mình để giúp đỡ, chăm sóc cho các phụ nữ, trẻ em ở cộng đồng của mình, đóng góp vào việc giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em ở đồng bào dân tộc thiểu số tại những vùng khó khăn.

Trong thời gian tới, ngành Y tế các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể, tổ chức liên quan tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các địa phương xây dựng và thực thi đầy đủ các chính sách đãi ngộ đối với cô đỡ thôn, bản, nhằm hỗ trợ, động viên cho đội ngũ này yên tâm công tác, tiếp tục cống hiến sức lực của mình vì sự nghiệp chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi./.

Đỗ Thoa

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực