1. Nắm vững thời cơ, chủ động chỉ đạo xây dựng kế hoạch chiến lược, chọn Tây Nguyên là hướng chiến lược mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Sau Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (27/01/1973), Mỹ buộc phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, tạo ra sự thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Thực hiện Nghị quyết 21 (7/1973) của Đảng, cùng với chỉ đạo quân và dân ta đẩy mạnh các hoạt động phản công, tiến công địch tạo chuyển biến cục diện trên chiến trường, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương kịp thời chỉ đạo cơ quan Tổng hành dinh bắt tay vào xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.

Xe tăng quân giải phóng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, ngày 10/3/1975 trong Chiến dịch Tây Nguyên (ảnh: TTXVN).
Từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1974, quân và dân ở miền Nam tiếp tục giành được những thắng lợi rất quan trọng trên mặt trận quân sự, chính trị và chống phá bình định của địch, qua đó tạo ra thế và lực mới cho cách mạng miền Nam. Tháng 2/1974, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh dự kiến phương hướng chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm (1975 - 1976), trong đó xác định: Đòn tiến công chính của chủ lực là Tây Nguyên. Tháng 9/1974, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chính thức giao cho Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) chuẩn bị mở Chiến dịch Nam Tây Nguyên (tên gọi ban đầu của Chiến dịch Tây Nguyên) với khu vực tác chiến được xác định chủ yếu là Thuần Mẫn và Đức Lập.
Đến tháng 10/1974, Bộ Chính trị nhất trí kế hoạch giải phóng miền Nam, xác định quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh đến mức phát triển cao nhất… giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà” [1]. Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975” [2]. Về hướng tiến công chiến lược và nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường, Bộ Chính trị yêu cầu phải chủ động đón thời cơ chiến lược, chuẩn bị sẵn tác chiến trên cả hai hướng chiến lược: Tây Nguyên (trọng tâm là Nam Tây Nguyên) là hướng chiến lược quan trọng, chủ yếu; miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Đánh chiếm được Tây Nguyên sẽ tạo nên phản ứng dây chuyền và điều kiện thuận lợi để ta tổ chức các chiến dịch tiếp theo, thực hiện chia cắt địch về chiến lược và phát triển nhanh về Sài Gòn.
Sau “Đòn trinh sát chiến lược Phước Long”, ngày 8/01/1975, Bộ Chính trị kết luận: “Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc… Trên chiến trường Khu V, Tây Nguyên, dùng ba sư đoàn quân chủ lực đánh Tây Nguyên, mở thông hành lang nối liền Nam Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, phối hợp với quân chủ lực Miền tiến đánh Sài Gòn” [3]. Nhạy bén và sáng suốt, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên, địa bàn có vị trí vô cùng quan trọng về chiến lược làm hướng tiến công chiến lược, mở màn cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đây là quyết định đúng đắn, một thành công xuất sắc trong chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh.
2. Xác định hướng tiến công và mục tiêu tiến công chiến dịch đúng đắn, sáng tạo
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với tiến công địch rộng khắp, liên tục ở mọi quy mô, vào những thời điểm quan trọng, trên cơ sở so sánh lực lượng và thế bố trí giữa ta và địch, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo quân và dân ta tổ chức các chiến dịch lớn đánh vào những nơi hiểm yếu nhưng địch lại sơ hở, để giành thắng lợi, làm rung chuyển thế trận chiến lược của địch, tạo thời cơ thuận lợi cho ta tiếp tục mở những đòn tiến công chiến lược tiếp theo.
Quá trình xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, nhận thấy thế và lực của địch đã suy yếu, bị động nhưng Mỹ khó có khả năng can thiệp trở lại. Nắm vững thời cơ cách mạng đang đến, ngày 18/12/1974, Bộ Chính trị họp Hội nghị mở rộng thông qua kế hoạch và quyết tâm tổng tiến công chiến lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Các ý kiến thảo luận tại Hội nghị đều nhất trí với phương án của Thường trực Quân ủy Trung ương chọn hướng chính là Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột là điểm đột phá chiến dịch mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong năm 1975.
Xét về mặt địa lý quân sự, Tây Nguyên là một địa bàn có nhiều thuận lợi cho đánh tiêu diệt lớn sinh lực địch, nhất là vùng xung quanh Buôn Ma Thuột. Đó là vùng tiếp giáp với đồng bằng Khu 5 và Nam Bộ, giành thắng lợi ở đây có thể dễ dàng phát triển xuống đồng bằng. Chọn Tây Nguyên là ta đã chọn đúng nơi hiểm yếu nhất của địch, bởi vì quân đội Sài Gòn lúc này đang tập trung lực lượng mạnh phòng thủ ở hai đầu (Trị - Thiên và Sài Gòn - Gia Định), yếu và sơ hở ở giữa (Quân khu 2). Đánh vào chỗ địch sơ hở nhưng hiểm, ta có điều kiện mở cuộc tiến công tiếp theo giải phóng vùng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, thực hiện chia cắt chiến lược, cô lập Quân khu 1 của địch, trực tiếp uy hiếp Quân khu 3, nhất là Sài Gòn - Gia Định. Thế trận phòng ngự của địch trên toàn miền Nam sẽ nhanh chóng bị phá vỡ. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã nắm chắc thời cơ và đưa ra quyết định chính xác mở chiến dịch giải phóng Tây Nguyên.
Trên địa bàn Tây Nguyên, địch bố trí phòng ngự mạnh ở phía Bắc (Kon Tum, Pleiku). Khu vực Buôn Ma Thuột (Nam Tây Nguyên) được xem như là hậu phương của chúng. Trước ngày ta nổ súng mở màn chiến dịch, địch tập trung 8/10 trung đoàn ở Bắc Tây Nguyên. Tại Nam Tây Nguyên, lực lượng phòng ngự của địch tương đối mỏng, có nhiều sơ hở, dễ bị cô lập. Đây cũng là chiến trường ta có kinh nghiệm tác chiến và điều kiện làm công tác chuẩn bị bảo đảm đòn đánh mở đầu chắc thắng. Đồng chí Lê Trọng Tấn cho rằng: “Chọn Nam Tây Nguyên là đánh vào nơi hiểm yếu và nơi địch đề phòng chưa thật tốt lắm” [4]. Trên cơ sở nhận định, đánh giá tình hình địch, tình hình ta, Bộ Chính trị đồng ý đề xuất của Quân ủy Trung ương chọn Buôn Ma Thuột là mục tiêu then chốt chủ yếu của chiến dịch. Với trận tiến công Buôn Ma Thuột ở Nam Tây Nguyên, ta sẽ đánh vào chỗ yếu chí tử của địch, làm cho quân đội và chính quyền Sài Gòn hoàn toàn bị bất ngờ về hướng tiến công và quy mô lực lượng của ta. Cuộc tiến công chiến lược của ta có điều kiện phát triển lên thành tổng tiến công chiến lược.
Ngày 21/01/1975, Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh giao nhiệm vụ bổ sung cho Chiến dịch Tây Nguyên, trong đó giải phóng Buôn Ma Thuột là nhiệm vụ chủ yếu của chiến dịch. Do tầm quan trọng về chiến lược, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định cử Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch Tây Nguyên. Quyết định mở chiến dịch tiến công Tây Nguyên thể hiện tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành chiến tranh. Giải phóng được Tây Nguyên, tạo điều kiện phát triển thuận lợi xuống các tỉnh duyên hải miền Trung, tiến về hướng Nam uy hiếp Đông Nam Bộ, tiến lên hướng Bắc uy hiếp Kon Tum, Pleiku. Đó là điểm khởi đầu dẫn đến sự tan rã, suy sụp về chiến lược của địch, tạo điều kiện cho quân và dân ta tổ chức các chiến dịch tiếp theo, thực hiện mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Chỉ đạo chuẩn bị lực lượng, tổ chức nghi binh và tạo lập thế trận cho Chiến dịch Tây Nguyên
Xác định Tây Nguyên là địa bàn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với chủ trương xây dựng lực lượng tại chỗ vững mạnh, rộng khắp, từ năm 1964, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã đưa một số đơn vị chủ lực vào chiến trường Tây Nguyên. Đặc biệt, trước khi ta mở Chiến dịch Tây Nguyên, để tạo ưu thế về lực lượng, phương tiện cho đòn mở đầu tiến công chiến lược năm 1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo điều động đến Tây Nguyên 04 sư đoàn bộ binh (10, 320A, 316, 968), 04 trung đoàn bộ binh (95A, 95B, 25, 271), 05 trung đoàn pháo mặt đất, cao xạ, 01 trung đoàn xe tăng, 01 trung đoàn đặc công, 01 trung đoàn thông tin và một số đơn vị vận tải, tạo ưu thế vượt trội lực lượng cả về số lượng và chất lượng so với quân địch [5]. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp đưa Chiến dịch Tây Nguyên đến toàn thắng. Nhờ được tăng cường lực lượng, quân và dân Tây Nguyên đã triển khai cả lực lượng chính trị, quân sự, cả ba thứ quân vào một thế trận chiến lược và cơ động trên toàn chiến trường, tạo thế cài xen giữa ta và địch trên một không gian rộng, vừa thực hiện được chia cắt, vây hãm địch, vừa tạo ra thế chủ động tiến công địch.
Để tạo thế trận chiến lược cho Chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo các địa phương, đơn vị tích cực nghi binh thu hút và giam chân khối chủ lực cơ động của địch. Trên toàn chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã xây dựng thế trận chiến lược tập trung lực lượng lớn ở Huế và Đông Bắc Sài Gòn, buộc đối phương phải căng ra ở hai đầu Nam, Bắc để giữ Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn, mở ra khu vực rộng lớn ở miền Trung, Tây Nguyên. Từ đầu tháng 3/1975, để phối hợp với Chiến dịch Tây Nguyên, quân và dân ta ở Mặt trận Trị - Thiên, Mặt trận đồng bằng Khu 5 đã đẩy mạnh hoạt động tiến công địch. Quân đoàn 2 mở chiến dịch tiến công phía tây thành Huế. Sư đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quân khu 5 mở đợt hoạt động ở phía Tây và Tây Nam thành phố Đà Nẵng, thị xã Tam Kỳ. Ở Nam Bộ, lực lượng vũ trang cách mạng cũng liên tiếp tổ chức các trận tiến công tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một vùng rộng thuộc tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông và 12 xã phía Nam Long An… Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các chiến trường đã tạo cho Chiến dịch Tây Nguyên phát triển tiến công thuận lợi, giành thắng lợi nhanh chóng, thời cơ giải phóng dải đất Trung Trung Bộ xuất hiện.
Để chuẩn bị thế trận chiến dịch, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức cho các đơn vị bộ đội chủ lực phối hợp với lực lượng vũ trang, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên thực hiện các hoạt động tác chiến nghi binh, tập trung chủ yếu ở Gia Lai, Kon Tum; tổ chức tuyên truyền, nghi binh ta sẽ đánh lớn ở Bắc Tây Nguyên. Địch tin chắc ta đánh lớn ở khu vực này, do đó đã tập trung phòng thủ, đối phó ở Bắc Tây Nguyên là chính. Trong khi đó ta chỉ để lại Sư đoàn 968 ở Bắc Tây Nguyên, bí mật đưa 3 sư đoàn (10, 320A, 316), các đơn vị binh chủng tăng thiết giáp, pháo binh, thông tin, đặc công vào Nam Tây Nguyên.
Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương “phải nghi binh rất nhiều để làm cho địch tập trung sự chú ý vào việc bảo vệ phía Bắc Tây Nguyên” [6], Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A không sử dụng vô tuyến điện để liên lạc. Toàn bộ mật danh vô tuyến liên lạc để lại cho Sư đoàn 968 giữ mối liên lạc thường xuyên như cũ, làm cho địch vẫn tưởng hai sư đoàn chủ lực này vẫn ở sát Pleiku và Kon Tum. Trung đoàn Công binh 7 kết hợp với dân công triển khai rầm rộ mở các trục đường ở Bắc Tây Nguyên để thu hút sự chú ý của địch, làm cho chúng càng tin rằng ta đang chuẩn bị tiến công hướng này. Trong khí đó, công binh ta đã hoàn thành mạng đường cơ động chiến dịch hướng tới Đức Lập, Gia Nghĩa và Buôn Ma Thuột.
Mặt khác, để thực hiện nhiệm vụ nghi binh của Bộ Tổng Tham mưu giao, cùng với việc sử dụng toàn bộ mật danh vô tuyến điện của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A để liên lạc thường xuyên với Bộ, Sư đoàn 968 đã đánh chiếm một đoạn Đường 19, cắt đứt tuyến vận chuyển tiếp tế của quân đội Sài Gòn, hình thành thế bao vây chia cắt Pleiku, cô lập quận lỵ Thanh An, Lệ Ngọc, buộc địch sử dụng lực lượng lên giải tỏa và bảo vệ đường giao thông. Ngoài ra, Sư đoàn 968 còn tổ chức chuẩn bị trận địa ở điểm cao 946, Bắc Ngọc Quận (Kon Tum) và Bắc Tỉnh lộ 5A (Pleiku) sẵn sàng bắn vào thị xã Kon Tum, sân bay Cù Hanh và La Sơn để thu hút địch.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, trực tiếp là Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên đã thực hiện thành công một loạt các hoạt động nghi binh, tạo thế, góp phần căng kéo, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận chủ lực địch, giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ và thời cơ thuận lợi cho các lực lượng trên các hướng chủ yếu tạo nên sức mạnh áp đảo, đẩy mạnh tiến công. Công tác nghi binh đạt hiệu quả cao, tạo đà cho Chiến dịch Tây Nguyên phát triển nhanh chóng, giành thắng lợi trong các trận then chốt quyết định, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch, mở ra thời cơ thuận lợi để quân và dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Có thể khẳng định, chỉ đạo chuẩn bị lực lượng, tổ chức nghi binh và tạo lập thế trận là một trong những thành công lớn của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trong Chiến dịch Tây Nguyên.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau và sẵn sàng can dự, chi phối vào nội bộ nước khác. Các yếu tố an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh… tiếp tục diễn biến theo chiều hướng phức tạp hơn. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi “phi chính trị hóa” Quân đội, với những thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện hơn. Trước tình hình đó, để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, giữ vững bản chất cách mạng, bảo đảm là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Để thực hiện tốt nội dung trên, cần tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; không ngừng tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, đảm bảo cho Quân đội luôn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, có tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Đảng bộ Quân đội tiếp tục đi đầu trong thực hiện các nghị quyết Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, nhất là âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng sinh hoạt, năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phê bình và tự phê bình, giữ nghiêm kỷ luật Đảng; đề cao tính tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy và chỉ huy cơ quan, đơn vị. Mặt khác, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Qua đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc về ý chí, niềm tin, trách nhiệm chính trị; xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ bản lĩnh chính trị, tâm thế vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh, bảo đảm trong mọi điều kiện, hoàn cảnh luôn trung thành vô hạn, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết, gắn bó mật thiết với Nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, tiếp tục điều chỉnh tổ chức biên chế các cơ quan, đơn vị Quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều chỉnh tổ chức biên chế là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng đòi hỏi khách quan thực hiện mục tiêu tổ chức Quân đội có cơ cấu và quân số cân đối, hợp lý giữa các thành phần lực lượng, phù hợp với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu chiến đấu trong tình hình mới. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, cấp ủy đảng và người chỉ huy các cấp cần tăng cường quán triệt và thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII “Về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01/8/2017 của Bộ Chính trị về bảo đảm vũ khí trang bị cho Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2025; nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ về nhiệm vụ điều chỉnh tổ chức biên chế Quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh” trong tình hình mới. Điều chỉnh thế bố trí để đáp ứng nhiệm vụ trên cả 5 môi trường tác chiến (không, bộ, biển, không gian mạng, không gian vũ trụ) [7]. Giải thể, sáp nhập một số cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, thành lập một số đơn vị mới; bố trí đóng quân ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Rà soát hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các đầu mối trực thuộc Bộ, phân định rõ không để chồng chéo.
Điều chỉnh tổ chức, biên chế là vấn đề lớn, tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của một bộ phận cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp và người lao động. Các cơ quan, đơn vị cần đánh giá đúng tình hình, thấy rõ những thuận lợi, khó khăn, củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ đối với chủ trương của Đảng, Quân đội; từ đó tạo sự đồng thuận, quyết tâm cao, tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước; tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức biên chế Quân đội, có cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức mạnh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của lực lượng vũ trang nhân dân.
Ba là, tích cực đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện, diễn tập, nâng cao chất lượng tổng hợp, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đây là yêu cầu cấp thiết, vấn đề hết sức quan trọng, nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, các cấp ủy đảng, người chỉ huy phải thường xuyên coi trọng, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác huấn luyện, nhất là Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo”; tổ chức thực hiện tốt Chỉ lệnh công tác quân sự, quốc phòng của Tổng Tham mưu trưởng. Đẩy mạnh đổi mới công tác huấn luyện theo tư duy mới về quân sự, quốc phòng của Đảng và phù hợp với yêu cầu chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược Biển Việt Nam phù hợp với Luật Quốc phòng Việt Nam năm 2018.
Đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp huấn luyện, bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, địa bàn hoạt động, đối tượng tác chiến, phù hợp với tổ chức biên chế, sự phát triển của vũ khí, trang bị và nghệ thuật quân sự Việt Nam, yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; tăng cường huấn luyện thực hành, huấn luyện theo nhiệm vụ, tình huống, nâng cao khả năng cơ động tác chiến trong điều kiện địa hình, thời tiết phức tạp, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện với luyện tập, diễn tập; xây dựng tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tin tưởng vào thắng lợi của cách đánh, vũ khí, trang bị hiện có. Đồng thời, tăng cường nghiên cứu, biên soạn, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống tài liệu huấn luyện cho các đối tượng, nhất là tài liệu huấn luyện cho các lực lượng mới thành lập; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, thực hành huấn luyện, diễn tập; tăng cường kết hợp giữa diễn tập chiến dịch, chiến lược với diễn tập chiến thuật, diễn tập vòng tổng hợp; kết hợp giữa diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng với tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương trong khu vực phòng thủ các cấp nhằm nâng cao năng lực tham mưu, chỉ huy tác chiến của cán bộ và trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của các phân đội; đặc biệt chú ý công tác kiểm tra, rút kinh nghiệm luyện tập, diễn tập, nhất là rút kinh nghiệm phối hợp, hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng trong khu vực phòng thủ, nhằm nâng cao khả năng phòng tránh đánh trả, bảo toàn lực lượng thời kỳ đầu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và khả năng tham gia ứng phó, khắc phục thảm họa thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, chống biến đổi khí hậu trong tình hình mới.
Bốn là, đầu tư nâng cao chất lượng và đồng bộ vũ khí trang bị cho Quân đội phù hợp với tổ chức, biên chế và Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam.
Sức mạnh của Quân đội cách mạng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó, con người là yếu tố quyết định, vũ khí trang bị là yếu tố rất quan trọng. Những năm gần đây, cùng với mua sắm và đẩy mạnh sản xuất, chế tạo, nhiều loại vũ khí, khí tài, nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại được đưa vào khai thác, sử dụng, góp phần nâng cao khả năng sức mạnh sẵn sàng chiến đấu của Quân đội. Phát huy kết quả đạt được, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị bám sát chủ trương của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, tổ chức thực hiện chặt chẽ công tác đầu tư, mua sắm, sản xuất, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí trang bị kỹ thuật; nâng cao năng lực làm chủ công nghệ sửa chữa, khai thác, sử dụng các loại vũ khí trang bị kỹ thuật thế hệ mới, hiện đại. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp; tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án mua sắm, sản xuất, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, phù hợp với khả năng của đất nước và yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang. Thực hiện chính sách mở rộng đa phương với nhiều nước trên thế giới để có nhiều lựa chọn trong mua sắm vũ khí trang bị công nghệ cao, phù hợp với khả năng kinh tế và xu hướng phát triển khoa học - công nghệ. Hợp tác kỹ thuật quân sự cả bề rộng, chiều sâu, từng bước chuyển dần từ mua sắm sang hợp tác nghiên cứu khoa học - công nghệ, chuyển giao công nghệ sản xuất, sửa chữa, cải tiến, tăng hạn vũ khí trang bị, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Chiến thắng Tây Nguyên đã tròn 50 năm, nhưng những chỉ đạo chiến lược sắc bén, đúng đắn, sáng tạo, kịp thời của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và những bài học quý được rút ra từ chiến dịch vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Các cấp ủy đảng, cán bộ chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp trong toàn quân, nhất là cán bộ cấp chiến lược, chiến dịch cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo vào huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
[1] - Thư của đồng chí Lê Duẩn gửi đồng chí Phạm Hùng, ngày 10/10/1974, và Kết luận Đợt 1 Hội nghị Bộ Chính trị. Tài liệu lưu Thư viện Viện Lịch sử quân sự, ký hiệu TK/1294.83.
[2] - Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.384.
[3] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại thắng mùa Xuân 1975, Văn kiện Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.26, 28-29.
[4] - Bộ Tổng Tham mưu - Cục Tác chiến, Lịch sử Cục Tác chiến (1945 - 2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.659.
[5] - So với đối phương, lực lượng của ta trên chiến trường Tây Nguyên gấp 3, 4 lần.
[6] - Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa Xuân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.31.
[7] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.157, 158, 139.
Thượng tướng, TS Lê Huy Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng